có thấy đám hơi bốc lên từ hòn đảo không? Không thể gọi đấy là sương mù
vì nó giống như một làn khói mỏng…”
“Đó là hơi nước từ mặt hồ bốc lên.”
“Nói như vậy, trẻ con cũng nói được. Nhưng đường viền phần dưới của
làn khói thẫm màu hơn, và nếu anh theo dõi thì thấy nó bay lên từ lùm cây
phỉ. Như vậy là thế nào? Theo tôi, đó là khói của một đống lửa mà người ta
giữ không cho nó cháy to.”
“Ta hãy chèo tới đó để đánh tan mọi nghi ngờ!” Heyward sốt ruột nói,
“Số người ở trên một khoảnh đất nhô như vậy hẳn không đông.”
“Nếu anh đánh giá mưu mô của người Anh điêng qua những điều đã học
trong sách vở hoặc bằng bộ óc sáng suốt của người da trắng thì sẽ nhầm
nếu không phải là mất mạng.” Mắt Chim Ưng vừa nói vừa vận dụng sự sắc
sảo đặc biệt của mình để quan sát tình hình trên đảo, “Nếu được phép phát
biểu về vấn đề này, tôi sẽ nói rằng chúng ta phải chọn giữa hai cách: một là
quay trở về và từ bỏ mọi ý định đuổi theo bọn Huron.”
“Không bao giờ!” Heyward kêu lên quá to trong hoàn cảnh lúc đó.
“Được, được,” Mắt Chim Ưng vừa nói vừa vội ra hiệu để ghìm sự nôn
nóng của Heyward, “tôi cũng rất đồng ý với anh; tuy nhiên, với kinh
nghiệm của mình, tôi thấy cần phải nói cho hết. Đã vậy, chúng ta phải ráng
sức chèo; nếu bọn Anh điêng hoặc Pháp ở trong những cái eo này, chúng ta
phải len lỏi giữa các hòn núi nhỏ, giơ lưng chịu sự tấn công từ hai bên
sườn. Thủ lĩnh thấy tôi nói có đúng không?”
Thay cho câu trả lời, người Anh điêng hạ mái chèo xuống nước, đẩy
xuồng tiến lên. Cử chỉ đó cũng đủ nói rõ quyết định của Chingachgook vì
bác làm nhiệm vụ điều khiển con thuyền. Cả mấy người mạnh mẽ gạt mái
chèo và chẳng bao lâu, họ đã tới một điểm mà từ đó có thể thấy toàn cảnh
Bắc của hòn đảo lúc trước bị che khuất.
“Đúng là bọn chúng ở đấy,” người trinh sát thì thào, “hai chiếc xuồng và
đám khói kia là những vật chứng cụ thể. Lũ khốn kiếp còn chúi đầu vào