cao lêu đêu trước bọn người man rợ hung tợn. Tôi chỉ lấy làm lạ rằng anh
ta đã thoát chết.”
“Anh ấy không chết ư?” Cora cất tiếng hỏi, giọng khàn khàn chứng tỏ sự
sợ hãi trong con người nàng đang tấn công mãnh liệt vào vẻ bình tĩnh bề
ngoài, “Liệu chúng ta có thể làm gì để cứu con người bất hạnh đó không?”
“Tim anh chàng vẫn đập, và sau khi ngủ được một giấc, anh ta sẽ tỉnh lại,
và sẽ khôn ngoan hơn cho tới ngày tận số.” Mắt Chim Ưng vừa liếc nhìn
David nằm bất động vừa nạp đạn rất chính xác, “Uncas, hãy khiêng anh ta
vào hang và đặt lên đống dẻ vàng. Càng ngủ được lâu càng tốt vì với một
thân hình dài như vậy, ta e rằng anh ấy không tìm đâu được một nơi ẩn nấp
trên những tảng đá này; còn như hát hò thì chẳng có tác dụng gì đối với bọn
Iroquois đâu.”
“Bác cho rằng bọn chúng sẽ tấn công nữa sao?” Heyward hỏi.
“Tôi không nghĩ rằng một con sói đói đang thèm ăn lại chịu đớp mồi một
miếng. Chúng mất một người, và theo lệ của chúng, khi thua thiệt và đánh
úp không thành công, chúng thường rút lui. Nhưng chúng sẽ trở lại với
những mưu chước mới để bao vây và chiếm lấy mảng da đầu của ta. Nguồn
hy vọng độc nhất của chúng ta,” Mắt Chim Ưng ngửng mặt lên và trên
khuôn mặt khắc khổ, một vẻ lo âu thoáng qua như bóng mây đen, “là giữ
vững vị trí cho tới khi đại tá Munro phái quân tới ứng cứu. Cầu trời cho
việc đó sớm được thực hiện, và phải có một người chỉ huy am hiểu tục lệ
của dân da đỏ.”
“Hẳn Cora thấy rõ số phận may rủi của chúng ta,” Heyward nói, “Bây
giờ, chỉ còn hy vọng vào sự quan tâm và kinh nghiệm của cha cô. Thôi, cô
và Alice hãy vào trong hang; ít ra trong đó còn tránh được những hòn đạn
giết người của kẻ địch và còn làm được một việc hợp với bản chất dịu dàng
của mình là săn sóc người bạn đồng hành bất hạnh của chúng ta.”
Hai chị em đi theo Heyward vào hang ngoài thì thấy David đã bắt đầu
rên, báo hiệu anh đang hồi tỉnh. Heyward dặn dò hai người chăm sóc kẻ bị
thương rồi vội vã quay gót.