ông thường để lộ hàm răng to xỉn màu và để đầu lưỡi lên môi dưới - một
thói quen từng làm tôi thấy khó chịu trong thời gian đầu chúng tôi mới
quen, trước khi tôi biết rõ về ông.
Khi bước đi dưới ánh nắng tôi nhớ lại lời của Già Cotter và cố nhớ lại
những gì đã xảy ra sau đó trong giấc mơ. Tôi nhớ ra rằng đã để ý thấy tấm
rèm cửa nhung dài và một ngọn đèn kiểu cổ đang đung đưa. Tôi cảm thấy
tôi đã ở một nơi rất xa, tại một vùng đất nào đó có những phong tục kỳ lạ -
ở Ba Tư, tôi nghĩ...Nhưng tôi không thể nhớ nổi đoạn kết của giấc mơ.
Tối hôm đó bác gái tôi dẫn tôi cùng đi đến nhà có tang. Lúc đó mặt trời
đã lặn; nhưng cửa sổ những ngôi nhà hướng về phía đông vẫn phản chiếu
sắc ráng đỏ từ một cụm mây lớn. Nannie đón chúng tôi ở sảnh; và bởi nếu
khóc lóc ầm ĩ lúc này thì không hợp cho lắm, bác gái tôi chỉ nắm chặt tay
bà. Người đàn bà chỉ đường cho chúng tôi lên cầu thang nhỏ và hẹp, đầu bà
cúi thấp gần ngang với thanh vịn. Ở chỗ nghỉ đầu tiên bà dừng lại và ra dấu
về phía cánh cửa đang mở của phòng người chết. Bác tôi bước vào và bà,
thấy tôi đang chần chừ không vao,lại dùng tay ra hiệu cho tôi.
Tôi nhón gót đi vào. Căn phòng chìm dưới ánh chiều mờ tối lọt qua phía
đuôi đăng ten rèm cửa sổ, những ngọn nến trông thật leo lét. Ông đã được
đưa vào quan tài. Nannie làm trước và cả ba chúng tôi quỳ xuống phía chân
giường. Tôi giả vờ cầu nguyện nhưng không thể tập trung được bởi những
âm thanh rì rầm của người đàn bà làm tôi xao lãng. Tôi để ý phần say váy
bà xếp nếp một cách cẩu thả và gót tất len của bà bị tuột lệch hẳn sang một
bên. Tôi bỗng tưởng tượng thấy ông linh mục già đang mỉm cười trong
quan tài.
Nhưng không. Khi chúng tôi đứng dậy và đi tới phía đầu giường tôi
nhận thấy ông không cười. Ông nằm đó, nghiêm trang và đầy suy tư, mặc lễ
phục như chuẩn bị lên trước bàn thờ Chúa, hai bàn tay lớn nắm hờ ly rượu
thánh. Khuôn mặt ông trông rất hung ác, xám xịt và thô kệch, hai lỗ mũi