lại cho tôi một cảm giác lạ thường về cuộc sống. Tôi tưởng tượng mình
đang ôm chặt một ly rượu thánh vượt qua tầng tầng lớp lớp kẻ thù. Tên của
cô bật ra trên môi tôi trong những lời cầu nguyện và tụng ca kỳ lạ nhất mà
chính tôi cũng không hiểu. Mắt tôi thường đẫm lệ (tôi không thể giải thích
tại sao) và đôi lúc dường như có một con sóng cuộn trào từ tim làm tôi
nghẹt thở. Tôi không nghĩ ngợi nhiều về tương lai. Tôi không biết liệu có
khi nào tôi được nói chuyện với cô hay không, hoặc, nếu được nói chuyện
với cô, làm sao tôi có thể nói cho cô hiểu tình cảm rối bời của tôi đây.
Nhưng thân thế tôi như một cây phong cầm và những lời nói cử chỉ của cô
như những ngón tay lướt trên dây đàn.
Một buổi tối tôi đi vào phòng khách phiá sau, nơi ông mục sư đã qua
đời. Đó là một tối mưa gió và trong nhà hoàn toàn không có một tiếng
động. Qua một ô kính vỡ tôi nghe thấy tiếng mưa chạm vào đất, những sợi
nước mảnh liên tiếp châm vào khoảnh hoa sũng nước. Một vài ngọn đèn
hay ô cửa sổ thắp sáng le lói xa xa. Tôi thấy biết ơn vì chỉ nhìn thấy có như
vậy. Tất cả giác quan của tôi dường như đều muốn biến mất và cảm thấy
mình đang chuẩn bị trượt khỏi chúng, tôi ấn mạnh hai mu bàn tay vào nhau
cho đến khi chúng run lên, miệng thầm thì liên tục "Ôi tình yêu! Ôi tình
yêu!"
Cuối cùng cô cũng nói chuyện với tôi. Khi cô cất những lời đầu tiên, tôi
thấy bối rối đến nỗi không biết nên trả lời ra sao. Cô hỏi tôi có đi Araby
không. Tôi không nhớ đã trả lời có hay không. Đây sẽ là một hội chợ từ
thiện hay lắm; cô nói, cô rất muốn được đi.
- Vậy sao chị không đi? - tôi hỏi.
Trong lúc nói, cô xoay đi xoay lại cái lắc bạc nơi cổ tay. Cô không thể đi
được, cô nói, bởi vì tuần đó trường dòng của cô sẽ có đợt cầu nguyện chay
tịnh. Thằng em cô đang giành mấy cái mũ với hai đứa khác, và tôi đang
đứng một mình bên hàng rào. Cô nắm một thanh rào, nghiêng đầu về phía
tôi. Ánh sáng từ cái đèn đối diện nhà làm nổi đường lượn cổ trắng muốt của