Tác phẩm được xuất bản đầu tiên của ông, người Dublin, gồm 15 truyện
ngắn, bề ngoài có vẻ đơn giản và truyền thống nhưng lại theo một phong
cách và ngôn ngữ đa chiều lạ lẫm.
Tiếp sau đó là tiểu thuyết mang đậm tính tự thuật A Portrait of the Artist
as a Young Man, câu chuyện của chàng Stephen Dedalus, hay chính là
Joyce, từ những ngày thơ ấu ở Dublin đến khi quyết định rời quê hương ra
đi theo đuổi nghệ thuật. Với độ phức tạp, sáng tạo về ngôn ngữ mô tả
những bí ẩn nội tâm thường hiếm khi được tiết lộ, cuốn sách, dù không bán
chạy nhưng đã thu hút được sự chú ý của một số nghệ sĩ thuộc trường phái
cách tân nổi tiếng thời đó, cho rằng thế kỷ mới đòi hỏi mọi thứ - nghệ thuật,
thi ca, văn chương, âm nhạc...cũng phải có gương mặt mới. Vậy là thử
nghiệm ngôn từ của James Joyce đã được ủng hộ, và ông cũng không làm
họ phải thất vọng.
Joyce bắt tay viết Ulysses năm 1914, một số phần của tác phẩm xuất
hiện trước trên tạp chí Egoist ở Anh và Little Reivew ở Mỹ, cho đến khi ba
số tạp chí bị đình chỉ và chủ báo bị phạt 100 đô la vì bị buộc tội đã đăng bài
tục tĩu, không phù hợp với đạo đức xã hội và thuần phong mỹ tục. Tuy
nhiên việc này chỉ càng làm tăng thêm sự tò mò của độc giả đối với tác
phẩm sắp chào đời. Thậm chí trước khi Ulysses được xuất bản năm 1922,
các nhà phê bình đã so sánh những sáng tạo của Joyce với khám phá của
Einstein và Freud.
Được ca ngợi là tiểu thuyết vĩ đại nhất trong lịch sử, Ulysses, như tên
gọi của nó, được sáng tác với cảm hứng từ Odyssey của Homer (khoảng thế
kỷ VIII trước công nguyên). Khi còn bé, Joyce đã bị mê hoặc bởi sử thi
Odyssey. Năm 20 tuổi, khi được viết về người anh hùng yêu thích nhất của
mình, Joyce đã chọn Ulysses, người chiến thắng bằng chính sự khéo léo và
thông minh hơn là dùng bạo lực. Khi viết Ulysses, (tên của Odysseus theo
cách gọi của người La Mã), Joyce đã nói rằng Odysseus là một tính cách
toàn diện và mang tính nhân văn nhất trong văn học.