- Anh lại thế rồi! Chắc hẳn là anh thiết tha với cái ngày thứ sáu của anh
lắm. Tôi chẳng còn biết hôm nay là thứ mấy nữa. Tôi quên mất cả ngày
tháng rồi...
Tên trung úy lại mỉm cười:
- Đó không phải là một ngày mà là một tên người. Đó là câu chuyện một
người giạt vào một hoang đảo sau một trận đắm thuyền. Anh ta có một
người bạn tên là Thứ Sáu. Chị chưa đọc sách bao giờ à? - Nó gieo mình
xuống chiếc áo và ho sù sụ.
- Không... chuyện thì tôi biết nhiều nhưng truyện ấy thì chưa. Anh nằm
im đã, đừng cựa quậy nữa, kẻo lại ốm trở lại. Còn tôi, tôi đi nướng một chú
cá đây. Anh ăn một chút cho nó lại người. Ít nhất là một tuần lễ rồi đấy, anh
chỉ toàn uống nước. Người anh xanh như một tàu lá
Tên trung úy uể oải nhắm mắt lại. Trong đầu nó, lanh tanh lên một thứ
tiếng của pha-lê. Nó nhớ lại, tiếng kèn đồng và tiếng chuông pha-lê và mỉm
cười. Ma-ri-út-ka hỏi:
- Có chuyện gì thế?
- Không có gì cả! Tôi nhớ lại một giấc mơ ngộ nghĩnh trong lúc mê sảng.
- Sao mà anh có thể hét ghê đến thế được. Anh ra lệnh chỉ huy rồi anh lại
chửi rủa. Đủ mọi thứ chuyện! Trời thì gió như thế này, xung quanh chẳng
có ai, chỉ mình tôi với anh giữa đảo mà anh thì lại ốm quá chừng. Tôi thật
sợ biết mấy và chẳng còn biết làm thế nào? - Ma-ri-út-ka rùng mình.
- Thế lúc ấy chị xoay xở ra sao?
- Thì anh thấy đấy. Điều mà tôi sợ nhất là anh chết vì đói. Chả có gì ăn
ngoài nước biển. Còn ít bánh khô, tôi đem ngâm nước đun sôi cho anh ăn
hết. Bây giờ thì chỉ còn có cá. Đối với một người ốm, cá ướp muối thì cũng
chẳng phải một món ăn tốt đâu. Thế rồi khi thấy anh cựa được mình và mở
được mắt, dù sao tôi cũng thấy nhẹ cả người.
Tên trung úy chìa tay ra. Nó đặt những ngón tay búp măng, tuy cáu ghét,
nhưng vẫn đẹp, lên chỗ hóp khuỷu tay Ma-ri-út-ka, vuốt ve và nói:
- Cám ơn con chim bồ câu của tôi!