Nhiễm Ung
冉雍, tên tự là Trọng Cung 仲弓, nhà nghèo mà vẫn ung dung,
không hệ lụy điều gì, sai khiến người ở không như nô lệ, không giận lâu ai,
không oán sâu điều gì. Không nhắc lại lỗi cũ của người ta. Khổng Tử khen
là người có khí tượng ông vua.
Tăng Sâm
曾參, tên tự là Dư 舆, học thức thì đầy mà không tràn, chắc chắn
mà không rỗng, biết quá rồi mà vẫn cho như là chưa kịp, làm được những
điều thánh hiền cho là khó. Dáng mặt bao giờ cũng cung kính, đức bao giờ
cũng đôn hậu, nói với ai điều gì cũng tin, tính người rất thật thà.
Hữu Nhược
有若, tên tự là Hữu 有, nhớ nhiều và thích đạo cổ.
Tể Dư
宰予, tên tự là Ngã 我, có khẩu tài, làm quan đại phu nước Tề, phải
tội bị giết cả ba họ. Khổng Tử lấy làm thẹn vì là học trò Ngài.
Đoan Mộc Tứ
端木賜, tên tự là Cống 貢, có tài biện thuyết, nhà giàu, thích
sự buôn bán, làm quan ở nước Lỗ, nước Vệ, sau mất ở nước Tề,
Nhiễm Cầu
冉 求 , tên tự là Hữu 有 , cùng họ với Trọng Cung, tính hay
khiêm tốn, hiếu học và biết rộng, làm việc giản dị mà siêng năng.
Trọng Do
仲由, tên tự là Lộ 路, lại có tên là Quý Lộ 季路, có dũng lực tài
nghệ, giỏi việc trị binh, tính quả cảm và cương trực, nhưng không đạt sự
biến thông. Làm quan đại phu nước Vệ, bị tội phải giết.
Ngôn Yển
言鰋, tên tự là Du 游, chỉ chuyên học Lễ, làm việc cẩn thận,
không hay hư hỏng, làm quan tể ở Võ thành.
Bốc Thương
卜商, tên tự là Hạ 夏, học Thi, hay bàn luận những điều tinh
vi. Giao với người trên, tiếp người dưới rất là phân biệt, minh bạch, tính
đốc tín, cẩn thủ, nhưng quy mô hẹp hòi.
Chuyên Tôn Sư
顓孫師, tên tự là Trương 張, người đẹp, tài cao, ý rộng, hay
làm việc khó khăn mà [không] cẩu thả, có công tốt không khoe, ở ngôi sang
mà không mừng, không khinh người hèn, không ngạo với người khổ. Tính
ung dung không hay câu nệ, cho nên không tương đắc với những người
đồng môn hay thủ lễ.
Thương Cồ
商賈, tên tự là Mộc 木, chuyên học Dịch, được truyền cái học
ấy của Khổng Tử.
Tất Điêu Khai
漆雕開, tên tự là Nhược 若, học Thư, không thích ra làm
quan.