Tài và Trần Đoàn mà làm ra, chứ không phải là của Phục Hi, Văn Vương,
Chu Công và Khổng Tử. Ông làm quyển sách ấy để phân biệt Dịch
易 của
tiền thánh, khác với Đồ
圖 là của họ Trần và họ Thiệu, để học giả biết Tống
học là Tống học, mà Khổng học là Khổng học. Chia ra thì hai bên cùng hay
cả, hợp lại thì hai bên cùng hỏng. Đó là cái ý ông nói ở trong bài tựa của
ông làm vậy.
Ông còn làm bộ Vũ cống chùy chỉ
禹貢锤指 rất có giá trị về địa lý học của
nước Tàu.
Giang Vĩnh. Giang Vĩnh
江永, tự là Thận Tu 慎脩 (1680 - 1762), người
đất Vũ Nguyên, tỉnh An Huy. Ông học rất rộng, xem hết các Kinh, Truyện
và bách gia chư tử, lại giỏi về toán số, ám vận và luật lữ, Sách của ông làm
ra hơn 10 bộ: Chu lễ nghi nghĩa cử yếu
周禮疑義舉要, Hương đảng đồ
khảo
鄉黨圖考, Giang Thận Tu số học 江慎脩數學, Suy bộ pháp giải 推步
法解, Lễ Ký cương mục 禮記綱目, Cổ vận tiêu chuẩn 古韻標準, Luật lữ
tân luận
律呂新論, v.v.
Từ Giang Thận Tu về sau, phái Hán học cực thịnh, là nhà có cha con họ
Huệ và thầy trò họ Đái vậy.
Huệ Sĩ Kỳ. Huệ Sĩ Kỳ
惠士奇, tự là Thiên Mục 天牧, người Tô Châu, tỉnh
Giang Tô, đỗ tiến sĩ đời Khang Hi, làm quan đến chức thị độc học sĩ, Ông
khảo cứu hết các kinh sử và cho là: “Sách Tam lễ của Trịnh Khang Thành,
sách Công dương truyện của Hà Hưu, phần nhiều là theo phương pháp đời
Hán, mà đời Hán cách đời xưa chưa xa mấy. Vê sau đến đời Đường không
hiểu được những lời chú thích của họ Trịnh. Nhà Hán xa nhà Chu, mà nhà
Đường lại xa nhà Hán, thì cái thuyết không thể hiểu hết được, huống chi từ
nhà Tống về sau hay sao?” Cái học của ông là lấy xưa-nay, xa-gần, mà định
phải, trái vậy.
Ông làm những sách như Dịch thuyết
易說 , Xuân Thu thuyết 春秋說 , v.v.
Huệ Đống. Huệ Đống
惠棟, tự là Định Vũ 定宇 (1696 - 1758), con thứ của
Huệ Sĩ Kỳ, theo lối học của cha, xét kỹ Hán học để làm cho sáng nghĩa các
Kinh. Ông nói ở đầu bộ Cửu Kinh cổ nghĩa rằng: “Người nhà Hán học Kinh
có phương pháp của từng nhà, cho nên có thầy dạy riêng năm Kinh. Cái học
huấn hỗ là đều bài thầy khẩu truyền cho... cổ tự, cổ ngôn, phi thầy dạy