cũng biết cái rương hòm ở chỗ nào, ta cứ ngay ngáy chỉ lo ở chỗ rương hòm
đó, cho nên phép không thể không chu mật. Phép càng chu mật, mà cái loạn
của thiên hạ lại sinh ra ở trong cái phép, ấy thế gọi là “phi pháp chi pháp
非
法之法” vậy” (Nguyên pháp).
Đại để, Hoàng Lê Châu là một nhà học giả hiểu thấu tới chỗ sâu xa của Nho
giáo về đường chính trị, và thấy rõ cái bệnh của những người làm vua làm
quan xưa nay, chỉ biết cái tư mà không biết cái công, học một đường làm
một nẻo, cho nên cái đạo của thánh hiền tuy hay mà vẫn không có hiệu quả.
Môn đệ của ông là Vạn Tư Đồng
萬斯同, tự là Quý Dã 季野, người đất
Ngân Huyện, tỉnh Chiết Giang. Vạn Quý Dã cho từ đời nhà Đương về sau,
người làm sử là quan của vua đặt ra, làm không được đúng sự thực, bèn một
mình làm bộ Minh sử. Luận giả cho là sau Tư Mã Thiên và Ban Cố có một
Quý Dã mà thôi.
Sau lại có Toàn Tổ Vọng
全祖望, tự là Thiệu Y 紹衣, người đồng huyện
với Vạn Tư Đồng, và là tư thục Hoàng Lê Châu. Toàn Thiệu Y là người có
tiếng trong đời Càn Long, phê bình và phát minh cái học của các danh nho
trong đời Thanh sơ.
2. Trình, Chu học. Phái này lấy lý học của Tống nho làm tông chỉ. Song
tựu trung có người như Vương Phu Chi thì theo cái học của Trương tử; như
Lục Lũng Kỳ biểu chương Trình, Chu. Hai người đều hết sức công kích
Vương Dương Minh. Còn các học giả khác thì xuất nhập ở các học phái đời
Tống.
Vương Phu Chi. Vương Phu Chi
王夫之, tự là Nhi Nông 而農, hiệu là
Thuyền Sơn
船山 (1627 - 1679), người đất Hành Dương, tỉnh Hồ Nam. Lúc
nhà Minh mất nước rồi, ông giấu tông tích, vào ở trong núi, không giao
thiệp với bọn sĩ phu, cho nên đương thời không ai biết. Ông học riêng một
mình, không theo tông phái nào cả, và làm sách rất nhiều. Năm Đồng Trị
(1862 - 1874) ở Kim Lăng khắc ra 288 quyển mà chưa được một nửa những
sách của ông.
Cái học của Vương Thuyền Sơn rất rộng, suốt cả Nho học, Lão học và Phật
học. Những sách của ông làm về Nho giáo thì có Độc thông giám luận
讀通
鑑論, Tống luận 宋論, Trương tử Chính mông chú 張子正蒙註 đều là sách