Thuở ấy còn có những người như Lý Quang Địa, Chu Di Tống và Phương
Bào, v.v. đều theo cái học của Trình, Chu và đều là người có tiếng lớn trong
khoảng sơ diệp nhà Thanh.
Lý Quang Địa. Lý Quang Địa
李光地 người đất An Khê, tỉnh Phúc Kiến
đỗ tiến sĩ năm 1660 đời Khang Hi, làm quan đến chức văn uyên các đại học
sĩ. Ông học rất rộng và rất đốc tín cái học của Trình, Chu. Ông tham dự vào
việc làm sách Chu tử toàn thư
朱子全書, sách Tính Lý 性理, v.v.
Chu Di Tôn. Chu Di Tôn
朱彞尊, tự là Tích Xưởng 錫鬯, người đất Tứ
Thủy, đỗ bác sĩ hồng từ năm 1679 đời Khang Hi và mất năm 1709. Ông học
rộng và nổi tiếng là người làm văn giỏi. Sách của ông có bộ Minh thi tổng
明詩綜, Kinh nghĩa khảo 經義考, v.v.
Phương Bào. Phương Bào
方苞, tự là Linh Cao 靈皋, người đất Đồng
Thành, tỉnh An Huy, đỗ tiến sĩ năm 1749. Ông lấy cái học của Tống nho
làm tông chỉ, và nổi tiếng là người làm văn giỏi, lập ra phái vản học gọi là
Đồng Thành phái
桐城派.
Phái Tống học truyền đến cuối trung diệp nhà Thanh, có hai người là La
Trạch Nam và Tăng Quốc Phiên, đem cái thực học thi thố ra ở sự nghiệp
lớn lao, làm đại biểu chân chính cho phái ấy.
La Trạch Nam. La Trạch Nam
羅澤南, tự là Trọng Nhạc 仲嶽, hiệu là La
Sơn
羅山, người đất Tương Hương, tỉnh Hồ Nam. Thuở nhỏ ông đốc chí về
chính học, rất ham đọc sách Tính Lý. Khi giặc Thái Bình nổi lên, ông mộ
quân hương dũng đi đánh, lập được nhiều công. Sau ông làm chức bố chính
sứ đi đánh giặc bị đạn, mất năm Hàm Phong thứ 5 (1856).
Ông thường nói rằng: “Binh pháp chỉ ở câu: ‘Tri chỉ nhi hậu định
知止而后
定’ ở trong sách Đại Học”. Cái học của ông vụ lấy đốc thực cho nên lâm sự
ông ứng biến rất giỏi.
Tăng Quốc Phiên. Tăng Quốc Phiên
曾國蕃, tự là Địch Sinh 滌笙, hiệu là
Bá Hàm (1811 - 1872), người đất Tương Hương, tỉnh Hồ Nam, đỗ tiến sĩ
năm Đạo Quang. Lúc ông đang làm chức thị lang thì cha mất, về đinh ưu.
Ông ở quê thấy quân Thái Bình đánh khắp mọi nơi, ông bèn mộ quân
hương dũng, luyện tập thành quân đội rồi đem đi đánh giặc. Ông đánh đâu
được đấy, chẳng bao lâu mà giặc tan. Bởi có công lớn ấy mới được phong là