thận. Sờ năm bảy lần thấy chỗ nào cũng đóng chặt, chú nhún vai, vào đề với
mình như thế này:
— Cóc khô!
Rồi chú lại nhìn trở lên cao. Jean Valjean trông thấy tất cả. Mấy phút
trước đang lúc tâm thần rối loạn, nhất định là ông chẳng nói chẳng rằng với
bất kỳ ai. Nhưng bây giờ bỗng dưng ông thấy có cái gì mãnh liệt thúc đẩy
ông lên tiếng hỏi chú bé:
— Chú bé, chú có việc gì thế?
— Tôi có việc tôi đói, - Gavroche đáp rành mạch, rồi thêm - Bé à? Có
ông bé đấy!
Jean Valjean thò vào túi quần móc ra một đồng năm francs. Như con
choai choai, Gavroche luôn luôn từ cử động này chuyển qua cử động khác,
chú đã cúi nhặt một hòn đá, chú vừa nhìn thấy cái đèn đường.
— À, ở đây các ông còn để đèn à? - Chú nói. - Không đúng với lệnh ban
bố, các ông bạn ạ. Như thế này là vô trật tự. Đập vỡ đi cho tôi.
Và chú ném hòn đá vào cái đèn. Mảnh kính rơi choang xuống đường làm
cho mấy người thị dân thu mình sau bức màn ở ngôi nhà trước mặt phải hốt
hoảng kêu lên: “Lại Chín Mươi Ba rồi?"
Ngọn đèn lắc mạnh rồi phụt tắt. Đường phố bỗng tối đen như mực.
Gavroche đắc chí:
— Thế đấy! Bà phố già ạ, bà đi ngủ đi cho tôi nhờ.
Xong chú quay lại Jean Valjean:
— Cái lâu đài to tướng ở cuối phố kia ông gọi là cái gì đó nhỉ? Có phải là
nhà Lưu Trữ Văn Thư không? Đập mẹ cái lũ cột to bự ấy mà làm một cái
chiến lũy có phải là gọn không nhỉ!
Jean Valjean bước đến cạnh Gavroche, lẩm bẩm trong miệng như nói một
mình:
— Tội nghiệp, thằng bé nó đói.
Và ông đặt đồng năm francs vào lòng bàn tay chú. Gavroche hếch mũi
lên, ngạc nhiên thấy đồng bạc to quá. Chú nhìn đồng bạc qua bóng tối, màu
bạc sáng trắng làm cho chú hoa mắt. Từ trước đến nay chú chỉ nghe nói có
đồng năm francs chứ chưa hề thấy, chỉ nghe ca tụng cũng đủ thích rồi. Lần
này thấy tận mắt, chú mê tít. Chú bảo: