chưa rõ.
Ông lên cái cầu thang đưa vào buồng riêng. Đến bậc trên cùng, ông đặt
ngọn nến xuống, nhẹ mở cửa đi vào, lần mò trong bóng tối đóng hết các cửa
chớp, cửa kính lại, rồi mới trở ra đem đèn vào trong phòng. Cẩn thận thế là
đúng; mọi người còn nhớ từ ngoài phố có thể nom rõ được cửa sổ buồng
ông.
Ông đưa mắt nhìn quanh phòng một lượt, cái bàn cái ghế, cái giường gọn
gàng đã ba hôm nay không có người nằm. Chẳng còn vết tích gì về chuyện
xáo trộn đêm hôm nọ nữa. Bà gác đã dọn dẹp sạch sẽ. Và bà đã nhặt được
trong đống tro hai mẩu sắt bịt đầu gậy và đồng hào bị đốt đen sì, để gọn ghẽ
trên bàn.
Ông lấy một mảnh giấy, viết mấy dòng như sau: “Đây là hai mẩu sắt bịt
đầu chiếc gậy của tôi và đồng hào tôi ăn cướp của thằng bé Gervais mà tôi
đã khai ở phiên Tòa Đại Hình”. Ông đặt những thứ đó trên tờ giấy để ở giữa
bàn cốt cho ai thoạt bước vào cũng trông thấy ngay. Ông mở tủ lấy một cái
áo lót mình đã cũ, xé thành mấy mảnh và gói hai cây nến bằng bạc lại. Dáng
điệu ông thong thả, bình tĩnh. Ông vừa gói đôi đèn nến của ông Giám Mục
vừa gặm một mẩu bánh đen, chừng như là thứ bánh của nhà tù phát, mà ông
đã đem theo khi trốn ra…
Chứng cớ là những vụn bánh mì, người ta tìm thấy trên nền gạch khi nhà
chức trách về sau đến khám xét trong phòng.
Có tiếng gõ khẽ ở ngoài. Ông bảo:
— Cứ vào.
Đó là bà xơ Simplice. Mặt bà tái xanh, hai mắt đỏ ngầu, cây đèn cầm ở
tay run lẩy bẩy. Con người ta, dù tận thiện hoặc nguội lạnh với cuộc đời đến
đâu nữa, khi gặp những cảnh phũ phàng của số mệnh, cũng thấy “bản chất
người” của mình hiện lên từ đáy lòng sâu kín nhất. Qua bao nhiêu cảm xúc
ngày hôm ấy, bà xơ đã trở lại là một người đàn bà và cũng khóc, cũng run
sợ.
Jean Valjean vừa viết xong mấy dòng chữ. Ông đưa tờ giấy cho bà và
bảo:
— Thưa bà, bà đưa giúp cái này cho ông cụ xứ.
Tờ giấy còn để mở. Bà ghé mắt nhìn. Ông bảo: