đến những kiểu can thiệp với dụng ý tốt thôi. Các chất gây nghiện, bao gồm cả thức uống có
cồn và nicotine, rõ ràng có thể ảnh hưởng xấu tới não của bé trong thai kỳ.) Nửa sau của thai
kỳ lại là chuyện khác. Quá trình phát triển não bộ chuyển từ phát sinh thần kinh là chủ yếu
sang tập trung tạo các khớp thần kinh. Giai đoạn này, bào thai bắt đầu nhạy cảm hơn với thế
giới bên ngoài. Việc mắc nối giữa các tế bào lúc này chịu nhiều ảnh hưởng từ bên ngoài – trong
đó có cả chính bạn – hơn hẳn quá trình sáng tạo chính bản thân nó trước đó.
Các giác quan phát triển một cách có chiến lược
Vậy bé xây dựng hệ thống giác quan của não như thế nào? Cứ hỏi các vị chỉ huy lính dù là biết
ngay. Họ sẽ kể cho bạn biết là muốn đánh trận thắng lợi cần trải qua ba bước: nhảy dù vào địa
hạt quân thù, chiếm cứ những vị trí trọng yếu, sau đó liên lạc về căn cứ. Quy trình này sẽ giúp
đài chỉ huy trung tâm theo sát được thông tin về quá trình chiếm đánh lẫn nhận định tình
huống để có cơ sở đưa ra quyết định hành động tiếp theo. Quá trình hình thành hệ thống giác
quan của não bộ cũng diễn ra tương tự.
Giống như lính dù chiếm cứ lãnh địa của quân địch, các tế bào thần kinh cũng chiếm cứ một
khu vực nhất định trong não bộ và xác lập các căn cứ giác quan, tai để nghe, mũi để ngửi. Một
khi đã chiếm được căn cứ, các tế bào này sẽ thiết lập những mối nối kết giúp chúng liên hệ
được với các cấu trúc chỉ huy và kiểm soát nhận thức cũng đang lớn lên dần trong não bộ.
(Trong thế giới thực bên trong não bộ, có rất nhiều đài chỉ huy trung tâm.) Những cấu trúc
đóng vai trò như các CEO này – những bộ phận đem lại cho con người khả năng nhận thức,
đang mải mê chiếm cứ các địa hạt, hệt như những anh lính dù. Và đó là một vài trong số những
khu vực mắc nối hoàn thiện cuối cùng trong tử cung. Điều này đồng nghĩa với việc các tế bào
thần kinh nối với mắt, tai hoặc mũi có thể nhận được tín hiệu báo bận khi chúng báo cáo lại về
căn cứ trung tâm. Do độ trễ này, một vài phần trong não trẻ có thể phản ứng với các kích thích
giác quan trước khi em bé thực sự nhận biết được kích thích.
Nhưng khi đã bắt được các tín hiệu đầu vào như âm thanh và mùi, tức là vào thời điểm bắt đầu
giai đoạn sau của thai kỳ, trẻ sẽ phối hợp nhịp nhàng chuẩn xác với những kích thích này. Và
trẻ nhớ được, trong tiềm thức. Đôi khi, việc ấy gây khiếp sợ, giống như những gì nhạc trưởng
Boris Brott đã khám phá ra vào một ngày nọ.
Bào thai có thể nhớ được
“Con biết trước từng nốt nhạc!” Brott thốt lên với mẹ. Khi ấy, Brott đứng trên bục chỉ huy một
dàn giao hưởng, điều khiển dàn nhạc chơi một tác phẩm lần đầu tiên, và nghệ sĩ cello bắt đầu
kéo đàn. Ông lập tức biết rằng mình đã từng nghe tác phẩm này. Không phải là kiểu nhớ lại một
tác phẩm nào đó đã bị quên lãng: Brott có thể dự đoán chính xác xem tiếp theo sẽ là tiết nhạc
nào. Ông còn tiên liệu được toàn bộ tác phẩm trong suốt phiên tập dượt; biết phải chỉ huy ra
sao kể cả khi bỗng nhiên bị lỡ mất một chỗ nào đó trong tác phẩm.
Sợ run người, ông gọi ngay cho mẹ mình, một nghệ sĩ cello chuyên nghiệp. Bà hỏi tên tác
phẩm, rồi phá lên cười. Đó chính là tác phẩm bà đã tập khi đang mang thai Boris Brott. Cây đàn
cello tì vào phần giữa bụng bầu của bà ở cuối thai kỳ, chiếc bụng bầu khi đó là một khối cấu
trúc chứa đầy những dòng chảy dẫn thanh, hoàn toàn đủ khả năng tiếp nhận các thông tin âm
nhạc cho cậu con trai sắp chào đời của bà. Còn não bộ đang phát triển của cậu bé thì đủ tinh
nhạy để ghi nhớ những ký ức âm nhạc. “Tất cả những bản nhạc mà tôi quen thuộc ấy đều là
những tác phẩm mà mẹ chơi khi đang mang bầu tôi,” về sau Brott đã giãi bày trong một cuộc
phỏng vấn. Một điều phi thường xảy ra với một cơ quan còn chưa được 0 tuổi.
Đây chỉ là một trong vô vàn ví dụ chứng minh rằng ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ, em bé
đã có thể tiếp nhận các thông tin từ thế giới bên ngoài. Thậm chí, những gì bạn ăn và ngửi cũng
có thể gây tác động đến nhận thức của trẻ sơ sinh (chúng ta sẽ thấy dưới đây). Đối với một em
bé mới chào đời, những thứ như vậy chẳng khác gì những tiện nghi gia đình quen thuộc.