vực hóa phẩm cho tới kỹ sư phần mềm. Sau khi được công bố vào năm 2009, công trình nghiên
cứu này còn giành được một giải thưởng từ tạp chí danh giá Harvard Business Review.
Những người nhìn xa trông rộng có chung năm đặc điểm mà các nhà nghiên cứu đặt tên là
“DNA của nhà cải cách”. Ba đặc điểm đầu tiên chính là:
• Một năng lực liên tưởng. Nhìn thấy liên hệ giữa các khái niệm, vấn đề hoặc câu hỏi tưởng như
chẳng có gì liên quan.
• Một thói quen khó chịu – liên tục đặt câu hỏi “thế thì sao”. Và “tại sao không” và cả “sao lại
làm thế này.” Những người có tầm nhìn này gột sạch mọi giới hạn của “tình trạng hiện thời”,
luôn luôn lục lọi, đào xới, lúc nhìn rất bao quát để đánh giá thứ gì đó có hợp lý không, lúc lại đi
vào chi tiết, đưa ra từng đề xuất.
• Một khao khát không ngừng sửa sang và thực nghiệm. Các doanh nhân có thể đứng trên một
ý tưởng nào đó, nhưng xu hướng trước tiên của họ là xé toạc nó ra, kể cả đó là ý tưởng tự mình
sinh ra. Họ thể hiện nhu cầu không ngừng được kiểm nghiệm mọi thứ: tìm ra mức trần, tìm ra
mức sàn, thấy được bề mặt, giới hạn chịu đựng, vành đai của các ý tưởng – bất kể là thuộc về
họ, về bạn, về tôi, hay thuộc về bất cứ ai. Họ đang gánh vác một sứ mệnh, và sứ mệnh ấy chính
là khám phá.
Mẫu số chung lớn nhất của những đặc điểm này là gì? Chính là thái độ tự nguyện khám phá. Kẻ
thù lớn nhất ở đây chính là một hệ thống có xu hướng chống-khám-phá, trong đó các nhà cách
tân của chúng ta thường tìm thấy chính bản thân mình. Hal Gregersen, một trong những tác
giả đi đầu trong nghiên cứu này, đã phát biểu trên tờ Harvard Business Review rằng: “Bạn có
thể tóm tắt tất cả những kỹ năng mà tôi đã lưu ý ở đây trong một từ duy nhất: ‘sự tò mò’. Tôi đã
dành tới 20 năm để nghiên cứu những nhà lãnh đạo vĩ đại trên toàn cầu và đó chính là mẫu số
chung rất lớn.” Sau đó, ông đã nói tiếp về đối tượng trẻ em:
“Nếu bạn để ý, những em bé lên 4 hỏi luôn mồm. Nhưng đến lúc được 6 tuổi rưỡi, chúng thôi
không còn đặt câu hỏi nữa, vì chúng nhanh chóng nhận ra rằng các thầy cô đánh giá cao câu trả
lời đúng hơn là những câu hỏi đầy tò mò. Học sinh trung học hiếm khi thể hiện sự tò mò. Và
đến khi các em trưởng thành rồi bước vào môi trường làm việc, trong các cơ quan, doanh
nghiệp, thì tính tò mò đã cạn khô trong chúng. Có tới 80% các nhà điều hành dành không đến
20% thời gian của mình để khám phá những ý tưởng mới mẻ.”
Nghe mà đau lòng. Tại sao chúng ta lại tạo nên trường học và nơi làm việc theo lối như thế này,
chưa bao giờ tôi lý giải nổi. Nhưng có những thứ mà bạn, ở vai trò bố mẹ, có thể làm để khuyến
khích ham thích khám phá rất tự nhiên ở con mình, đó là bắt đầu thấu hiểu xem tính tò mò có
đóng góp ra sao tới thành công về mặt tri thức của con cái mình.
Một em bé mẫu giáo được cho ngồi xuống trước một chiếc bàn, trước mặt là hai chiếc bánh
quy sô-cô-la vừa mới nướng xong. Đó không phải bàn bếp – mà là phòng thí nghiệm của
Walter Mischel Stanford hồi cuối thập niên 1960. Mùi bánh thật thơm hết sảy. “Con thấy mấy
cái bánh này chứ?” Mischel nói. “Con có thể ăn một cái ngay bây giờ nếu con thích, nhưng nếu
chịu đợi, con có thể ăn cả hai. Bác phải đi ra ngoài chừng năm phút. Nếu khi bác quay lại, con
vẫn chưa ăn gì, bác sẽ cho con ăn cả hai cái bánh. Còn nếu con đã ăn một cái lúc bác đi vắng rồi,
thì keo này coi như bỏ và con sẽ không được ăn cái bánh thứ hai. Mình giao hẹn thế nhé?” Em
bé gật đầu. Còn nhà nghiên cứu rời khỏi phòng.
Em bé làm gì đây? Mischel đã có những cuốn phim ngộ nghĩnh nhất về phản ứng của các em bé.
Chúng loay hoay trong chỗ ngồi của mình. Chúng xoay lưng về phía mấy cái bánh (hoặc kẹo
bông hoặc các loại mứt đủ vị khác, tùy từng ngày). Chúng ngồi lên tay. Chúng nhắm một mắt,
rồi cả hai, rồi lại len lén dòm trộm. Chúng gắng sức giành được cả hai chiếc bánh, nhưng sao
khổ sở quá. Với nhóm trẻ ở độ tuổi mẫu giáo, 72% đành bó tay và ngấu nghiến chiếc bánh. Nếu
các em đang học lớp bốn, thì chỉ 49% chịu thua trước cám dỗ này. Đến lớp sáu, con số chỉ còn