liệu về phạm tội của trẻ em nội thành. Trẻ sinh ra trong những gia đình thu nhập thấp nếu
được đưa vào các trường mẫu giáo thiên về hoạt động vui chơi trong những năm tuổi đầu tiên,
thì đến tuổi thành niên, không đến 7% dính vào vòng lao lý. Trong khi đó, những em học ở các
trường thiên về dạy kiến thức, con số này lên tới 33%.
Những câu hỏi theo kiểu con-gà-hay-quả-trứng đầy rẫy trong những số liệu này, vậy nên
chúng ta phải luôn đề cao thái độ hoài nghi. Ví dụ, liệu vui chơi là một phương pháp học tập,
hay chỉ đơn thuần là một cách thực hành hoặc hợp nhất các kỹ năng đã được phát triển từ
trước đó? Thật mừng, những tranh cãi như vậy dẫn đến việc cấp vốn cho những nghiên cứu
phụ trợ, như vậy chúng ta có cơ hội tiến lại gần kết quả hơn. Những nghiên cứu mới mẻ lại đặt
ra câu hỏi: Liệu có những hành vi đặc thù nào ẩn trong lối vui chơi mở ngỏ sản sinh ra lợi ích
hay không? Câu trả lời là CÓ.
Có điều, không phải bất cứ hình thức vui chơi dạng mở nào cũng cho ra kết quả phi thường
như thế. Có sự khác biệt tinh tế giữa những trò chơi sáng tạo và chơi phứa đi, chẳng có luật lệ,
ai thích làm gì thì làm. Mô hình “chơi sao cũng được” này bắt nguồn từ quan điểm lãng mạn
xưa cũ, rằng trẻ em sinh ra với trí tưởng tượng phong phú, hoàn chỉnh, và tạo nên những thế
giới hư cấu đã thành bản năng của chúng. Thế nên, họ cho rằng chỉ cần chúng ta tạo điều kiện
cho trẻ dẫn dắt người lớn, thì tất thảy mọi sự đều tốt đẹp cả. Cá nhân tôi cũng bày tỏ sự tán
thành sâu sắc với nhiều phần của ý niệm này. Trẻ em rất sáng tạo và ham học hỏi, chúng ta học
được nhiều về óc tưởng tượng từ trẻ em hơn so với các nguồn khác. Nhưng trẻ em cũng rất
non nớt, thiếu kinh nghiệm. Phần lớn các bé không nắm trong tay chìa khóa khai mở tiềm năng
của mình; đó là lý do vì sao các bé cần cha mẹ.
Kiểu vui chơi có lợi cho trí tuệ và nhận thức là kiểu hướng trẻ biết cách tự chủ và tự điều chỉnh
– những hành vi thuộc chức năng điều hành mà chúng ta đã thảo luận ở chương trước, một
thành phần của trí thông minh, được hé lộ trong thí nghiệm về chiếc bánh quy. Các dữ liệu ở
đây rất rõ ràng, bạn hoàn toàn có thể sử dụng chúng để thiết kế nên phòng vui chơi cho gia
đình mình.
Công cụ trí não: nhập vai
Một dạng trò chơi này là trò Nhập vai (Mature Dramatic Play). Để phát huy tác dụng, cần để trẻ
chơi trò Nhập vai nhiều giờ mỗi ngày. Nó đã được đưa vào thành chương trình trong trường
học gọi là Công cụ Trí não, một trong số ít những chương trình đã được nghiên cứu bằng
những thử nghiệm ngẫu nhiên.
Ý tưởng về Công cụ Trí não được nhà tâm lý học người Nga Lev Vygotsky đưa ra. Ông chính là
nguồn cảm hứng cho tất cả những thiên tài tương lai, những người chưa thể quyết được xem
mình muốn làm gì khi lớn lên. Lev Vygotsky khởi đầu sự nghiệp bằng công việc phân tích văn
học, viết một bản tiểu luận trứ danh về Hamlet khi mới 18 tuổi, nhưng sau đó quyết định tới
trường Y thuộc Đại học Moscow để trở thành bác sĩ. Chẳng bao lâu, ông lại đổi ý, chuyển sang
học luật, rồi gần như ngay tức thì, nộp đơn xin vào một trường đại học tư để theo đuổi ngành
văn chương. Vẫn chưa hài lòng, ông còn giành được một tấm bằng Tiến sĩ Tâm lý. Đáng tiếc là,
vài năm sau đó, ở tuổi 38, ông qua đời. Nhưng mười năm tích cực theo đuổi chuyên ngành tâm
lý học của ông để lại nhiều cống hiến quan trọng.
Vygotsky là một trong số ít nhà nghiên cứu thời đại ông đi sâu nghiên cứu trò chơi sắm vai ở
trẻ em. Ông dự đoán rằng năng lực tham gia vào các hoạt động tưởng tượng ở nhóm tuổi dưới
5 sẽ là một tiêu chuẩn đánh giá thành công về học vấn chính xác hơn những hoạt động khác –
hơn cả khả năng ngôn ngữ và định lượng. Vygotsky tin rằng, như vậy giúp trẻ học được cách
điều chỉnh ứng xử xã hội của mình.
Không giống như lối diễn kịch nhập vai thoải mái mà chúng ta vẫn thấy ở Mỹ, Vygotsky coi
đóng kịch tưởng tượng là một trong những trải nghiệm hành vi có luật lệ, quy định chặt chẽ.
Nếu như Sasha bé bỏng muốn trở thành đầu bếp, cậu sẽ phải tuân theo các quy tắc, triển vọng