không, sau khi nghĩ kỹ, tôi thực sự không đủ can đảm làm việc đó.
Thậm chí tôi còn tự hỏi không biết những phố ấy có còn tồn tại hay
không và chẳng biết chừng chúng đã bị chất tối nuốt chửng một lần
cho mãi mãi.
***
Tôi thích dạo bộ ngược Champs-Élysées vào một buổi tối mùa
xuân. Giờ đây đại lộ ấy không còn thực sự tồn tại, nhưng, đêm đến,
nó vẫn còn tạo ảo giác. Có lẽ trên Champs-Élysées anh sẽ nghe tiếng
em gọi tên anh... Ngày em bán cái áo khoác lông thú và viên ngọc
lục bảo tròn trịa, anh còn chừng hai nghìn franc từ số tiền Béraud-
Bedoin trả cho anh. Ta thật giàu. Tương lai thuộc về ta. Tối ấy, em đã
lòng lành đến với anh ở khu Étoile. Đó là mùa hè, đúng cái mùa hè
ta ở trên các kông cùng Đầu Lâu và anh thấy hai người tiến về phía
anh. Ta tới quán ăn ở góc phố François Đệ Nhất giao với phố
Marbeuf. Người ta đã bày những cái bàn ra ngoài vỉa hè. Trời vẫn
còn sáng. Không có người qua lại và ta nghe thầm thì những giọng
nói và tiếng ồn những bước chân. Quãng mười giờ, khi chúng ta đi
xuôi Champs-Élysées, anh tự hỏi không biết có bao giờ trời chịu tối
không hay đó lại chẳng phải là một đêm trắng như ở Nga và các
nước phương Bắc. Ta bước đi vô định, ta có cả đêm ở trước mặt. Vẫn
còn lại những ráng mặt trời trên các vòm tường phố Rivoli. Đây là
đầu hè, ta sẽ sớm đi khỏi. Đi đâu? Ta còn chưa biết được. Có lẽ là
Majorque hoặc Mexico. Có lẽ là London hay Rome. Những nơi chốn
không còn chút quan trọng nào nữa, chúng lẫn lộn hết vào với nhau.
Đích duy nhất chuyến đi của chúng ta, đó là đi VÀO TÂM MÙA
HÈ, nơi thời gian dừng lại và nơi những cây kim đồng hồ lúc nào
cũng chỉ cùng một giờ: giữa trưa.
Ở Palais-Royai, bóng tối đã buông. Chúng tôi dừng lại một lúc ở
hiên quán Ruc-Univers trước khi tiếp tục bước đi. Một con chó đi
theo chúng tôi dọc phố Rivoli cho tới Saint-Paul. Rồi nó vào trong
nhà thờ. Chúng tôi không cảm thấy mệt chút nào, và Louki bảo tôi