Sau đó là người Hoa Kỳ kéo đến. Họ càng ham hố hơn vì họ đông. Họ
chiếm đất đai, sửa lại luật lệ để hợp lý hóa việc chiếm đoạt của ho. Các
nông trại mọc lên khắp nơi, lúc đầu chỉ ở trong các thung lũng, sau đến các
sườn đồi thấp. Những ngôi nhà bằng gỗ nhỏ nhắn, có rào quanh một khoảnh
bằng những trụ cây cách quãng làm nơi nuôi súc vật, loại phong lữ thảo và
loại hường được trồng ở sân trước. Những cánh đồng trồng bắp, lúa mạch
và lúa mì viền quanh bằng loại cải vàng. Dọc theo đường chính, cứ cách
khoảng mười dặm, có một hiệu tạp hóa lớn và một lò rèn. Đó là trung tâm
điểm cho các thị trấn nhỏ như Bradley, King City, Greenfield.
Gió thường thổi lồng lộng qua các khu cư trú đó về buổi chiều. Các chủ
nông trại đã phải lo trồng những cây khuynh diệp dài hàng dặm để ngăn lớp
đất trên cùng có thể trồng trọt được khỏi bị thổi tốc đi hết. Ông tôi đã đem
vợ đến cư ngụ trên các ngọn đồi thấp ở về phía đông thành phố King City,
giữa lúc thung lũng Salinas đang ở trong thời kì ấy.
Chàng trai trẻ Samuel Hamilton gốc gác ở miền bắc Ái Nhĩ Lan. Tại sao
ông phải rời bỏ quê cha đất tổ thì tôi không được rõ. Theo lời đồn đãi trong
gia đình tôi, thì ông ra đi vì một chuyện tình, không phải là chuyện tình
giữa ông và bà vợ mà ông kết hôn.
Ông đã đến thung lũng Salinas với tất cả sự hăm hở và nghi lực. Ông là
một người to lớn nhưng khéo léo, trong công việc đồng áng lắm láp, ông
vẫn luôn luôn có vẻ tươm tất. Ông rất lanh trí, luôn luôn tìm tòi một đường
lối mới để thực hiện một công việc cũ xưa một cách nhanh chóng và kết
quả mỹ mãn hơn. Dù vây, suốt đời ông là kẻ không có tài làm giàu.
Ông đến thung lũng khoảng ba mươi năm trước khi đổi qua thế kỉ này,
đem theo bà vợ người Ái Nhĩ Lan, một người đàn bà nhỏ nhắn, trầm lặng
như một cái bóng. Bà có tinh thần khắc khổ của giáo phái Trưởng Lão.
Chính tinh thần đó làm hỏng tất cả những gì đáng lẽ ra có ý nghĩa và đáng
vui.