quý mến nó, mà xúc động trước hình bóng đó, nhưng cũng chẳng khác nào
bức ảnh của một người bạn đã chết xâm chiếm ý nghĩ chúng ta; đó là nét
mặt anh ta, là khuôn mặt anh ta, là những ngày sống chung với anh ta;
chung sống lại trong óc chúng ta một cách giả tạo, nhưng không phải là
chính anh ta.
Chúng tôi sẽ chẳng còn gắn bó với cái phong cảnh ấy như trước đây nữa.
Không phải sự hiểu biết vẻ đẹp và tâm hồn của nó đã lôi cuốn chúng tôi
đến với nó, mà là sự cảm thông, ý thức về một mối tình ruột thịt với những
sự vật và biến cố của bản thân chúng tôi, mối tình ruột thịt ấy ngăn cách
chúng tôi, thường làm cho chúng tôi không hiểu nổi cái thế giới của các bậc
cha mẹ; vì có thể nói rằng chúng tôi luôn luôn tha thiết mê say và bị lãng
quên trong cái thế giới riêng của chúng tôi, và những sự vật nhỏ bé nhất đối
với chúng tôi bao giờ cũng tận cùng ở con đường vô tận. Có lẽ, đó chỉ là
cái đặc ân của thời niên thiếu; thời ấy chúng tôi chưa nhìn thấy một giới
hạn nào, và chúng tôi chẳng cho đâu là đích cả; chúng tôi có trong người
cái men say của dòng máu kết hợp chúng tôi với bước đường đời chúng tôi.
Ngày mai, có lẽ chúng tôi sẽ đến thăm phong cảnh thời thơ ấu như
những người du khách. Chúng tôi đã bị sự đời làm cho tiều tụy, chúng tôi
biết phân biệt những chi tiết như những gã lái buôn, và thấy được nhu cầu
như những tay bán thịt. Chúng tôi không còn vô tư lự nữa, chúng tôi lạnh
lùng một cách đáng sợ. Chúng tôi sẽ ở đây, nhưng có phải chúng tôi sống
không...
Chúng tôi bơ vơ như những đứa trẻ và thạo đời như những cụ già; chúng
tôi thô lỗ, u sầu và hời hợt, tôi cho rằng chúng tôi đã hỏng hết.
Bàn tay tôi lạnh toát và da nổi gai lên. Vậy mà, đêm vẫn nóng, chỉ có làn
sương mù là lạnh lẽo, cái sương mù quái gở ấy bò xung quanh những người
chết trước mặt chúng tôi và hút lấy giọt sống cuối cùng còn dấu kín. Ngày
mai, họ sẽ nhợt nhạt, máu họ sẽ tím đen và đóng cục. Những pháo sáng vẫn
bay lên trời và tỏa ánh sáng tàn nhẫn trên cái quang canh sững sờ đầy hố