chởm, đột ngột buông xuống trên ngọn khu rừng. Chính sau ngọn núi đó,
thành phố sẽ hiện ra.
Ánh sáng màu vàng son chảy trên mặt đất và hòa với đất; con tàu chạy
vào một khúc lượn, kêu rít lên, rồi lại một khúc lượn nữa, và xa tít, những
cây bạch dương thẳng tắp có vẻ hư ảo, mơ hồ, mờ mịt, cây nọ nối cây kia
thành một hàng dài như toàn bằng bóng tối, ánh sáng và ưu tư.
Đồng quê từ từ xoay tròn với hàng cây, con tàu lượn quanh chúng, các
khoảng cách giảm dần, những bóng cây chập lại chỉ còn một khối và, một
lát sau, tôi chỉ còn nhìn thấy một cây. Rồi những cây khác lại xuất hiện sau
cây đầu tiên, chúng đứng cô đơn như vậy rất lâu, trên nền trời, cho đến lúc
chúng bị những ngôi nhà đầu tiên che lấp.
Đây là chỗ đường sắt chạy ngang phố. Tôi ngồi yên cửa sổ không thể rời
ra được. Mọi người sửa soạn hành lý để xuống, còn tôi, tôi thầm thì đọc tên
phố đi qua: "Phố Brem, phố Brem Brem... " Dưới đường có người đi xe
đạp, có xe cộ: có người ta. Đấy là một phố màu xám và một cái cầu chui
màu lam, thế mà nó làm tôi cảm động khác nào chính mẹ tôi. Rồi con tàu
dừng lại, nhà ga đây rồi, với tiếng ồn náo, tiếng gọi nhau và những bảng yết
thị. Tôi nhắc ba lô đeo lên vai, xách khẩu súng trường và bước xuống
những bậc tàu, gần như loạng choạng. Đứng trên sân ra, tôi nhìn quanh. Tôi
chẳng quen một ai trong đám người đang chen chúc ấy. Một bà Hồng thập
tự mời tôi uống. Tôi lảng ra. Bà ta cười với tôi một cách ngớ ngẩn, tưởng
mình quan trọng lắm (xem, tôi cho anh lính uống cà phê đây!) Bà ta nói với
tôi: "Anh bạn ơi", y như tôi cần đến cái tiếng ấy lắm.
Phía ngoài trước ga, một dòng sông lấp lánh chảy cạnh dãy phố. Ra khỏi
cửa cổng của chiếc cầu nhà máy xay, con sông reo lên trắng xóa. Ngọn tháp
vuông cổ kính đứng sừng sững ngay gần đó; trước tháp, có cây bồ đề thật
to màu sắc rực rỡ, và sau tháp là cảnh hoàng hôn.
Nơi đây chúng tôi thường hay ngồi chơi - ngày ấy lâu quá rồi!