tràn đi và điểm lên cành lá; nhưng liền sau đó, ở một chỗ, màu sắc tối sầm
lại gần như màu đen khi có đám mây lướt qua mặt trời. Rồi bóng đen ấy
chạy như một bóng ma dọc các thân cây lúc này trở nên nhợt nhạt, và trải
ra khắp cánh đồng hoang cho đến. tận chân trời. Trong khi ấy những cây
phong đã vươn lên như những ngọn cờ uy nghi, với những cán cờ trắng
muốt mang ánh vàng son của cành lá nhuộm màu.
Tôi thường mê mải với cảnh biến diễn ánh sáng nhẹ nhàng và bóng tối
trong trẻo ấy, đến nỗi gần như không nghe thấy hiệu lệnh chỉ huy nữa:
những lúc cô đơn, người ta thích quan sát cảnh thiên nhiên và đâm ra yêu
mến nó. Ở đây tôi ít quen thuộc, vả lại, tôi cũng không thích có quan hệ với
nhiều người.
Người ta hiểu biết nhau quá ít nên ngoài việc chuyện gẫu và buổi tối chơi
cờ mười bảy và bôn hoặc đánh bài ram cũng chẳng biết làm gì khác.
Cạnh lán chúng tôi có một trại lớn giam tù binh người Nga (Tù binh Nga
trong Đại chiến lần thứ Nhất - ND). Nói cho đúng, thì trại tù binh cách
chúng tôi một hàng rào dây thép, tuy vậy bọn tù binh vẫn sang được chỗ
chúng tôi. Họ rất rụt rè và sợ sệt; phần nhiều họ rậm râu và rất to lớn, vì thế
nom họ như những con chó xồm bị người ta đánh.
Họ lượn chung quanh lán chúng tôi, và diễu qua những cái thùng đựng
nước nhờn. Chúng tạ thử tưởng tượng xem họ tìm được những gì! Chỗ
chúng tôi, thức ăn đã chẳng dồi dào gì cho lắm, và nhất là lại tồi nữa; củ cải
vàng cắt sáu luộc nước lã, cà rốt còn dính cả đất; khoai sắn đối với chúng
tôi đã là một món quý và bữa tiệc ngon tuyệt trần của chúng tôi là món
cháo gạo lõng bõng, trong đó lều bều một ít nước gân bò băm nhỏ thì phải.
Nhưng lại băm nhỏ quá đến nỗi chẳng ai trông thấy miếng nào. Dĩ nhiên,
dù thế, chúng tôi cũng chén tất. Nếu anh nào tình cờ có cái gì ăn, không cần
phải liếm đáy cà mèn thì có hàng chục người khác sẵn sàng liếm ngay. Chỉ
có những cái thừa mà không xúc được, người ta mới tráng nước và đổ vào