chậu nước nhờn. Thỉnh thoảng chúng tôi còn vất vào chậu ít vỏ củ cải,
những mẩu bánh mốc và đủ các thứ rác rưởi.
Cái thứ nước bẩn thỉu, đục ngầu và chẳng béo bổ gì ấy chính là cái mà
bọn tù binh khao khát. Họ đến múc nước ấy một cách thèm thuồng trong
những chiếc thùng gỗ hôi thối, dấu nó vào trong áo khoác rồi mang đi.
Cái cảnh những kẻ thù của chúng tôi, nhìn tận mặt như vậy thật lạ lùng.
Họ có những bộ mặt làm ta phải suy nghĩ, những bộ mặt nông dân chất
phác, trán rộng, mũi rộng, môi dầy, bàn tay to, tóc rậm.
Dùng họ để cày ruộng, cắt cỏ và hái táo thì tốt biết bao nhiêu. Trông họ
còn hiền lành hơn cả những người nông dân của chúng tôi. Thật là đáng
buồn khi trông thấy những cử chỉ của họ và cách thức họ xin một tí thức ăn.
Tất cả bọn họ đều suy nhược, vì họ chỉ được lãnh một khẩu phần vừa đủ để
khỏi chết dói. Đã lâu rồi, chúng tôi ăn uống cũng chẳng ra gì. Họ bị bệnh
kiết lị. Với con mắt lo âu, nhiều người trong bọn họ chỉ trỏ một cách lén lút
vết máu trên vạt áo sơ mi của họ. Lưng họ run lên bần bật, đầu họ nhìn
chênh chếch từ dưới lên khi họ chìa tay ăn xin, mồm lắp bắp vài ba tiếng
mà họ biết - khi họ ăn xin bằng cái giọng trầm trầm nhẹ nhàng và êm dịu,
cái giọng gợi lên những lò sưởi ấm áp, những căn nhà mà người ta đang
sống thoải mái ở tổ quốc.
Có những đứa đá họ ngã lăn xuống đất, nhưng đó chỉ là số ít. Phần đông
chúng tôi cứ để mặc họ, khi họ đi bên cạnh. Thực ra, đôi khi thấy họ khốn
khổ quá, người ta cũng điên tiết lên và đá cho một cái. Chao ôi! Giá họ
đừng nhìn anh như vậy. ]Xiết bao là tiếng khổ trong hai cái điểm nhỏ bé ấy,
mà ngón tay cái đủ che kín cả trong đôi mắt của họ.
Buổi chiều họ đến lán chúng tôi và tìm cách đổi chác. Họ đổi tất cả mọi
thứ để lấy bánh. Đôi khi họ cũng đi đến chỗ thuận mua vừa bán với chúng
tôi, vì họ có những đôi ủng tất, còn ủng của chúng tôi thì xấu quá. Da ủng
cao cổ của họ màu lạ lùng, thực là da Nga chính cống. Trong bọn chúng tôi,