đồ hộp cho họ để lấy những thứ chúng tôi thiếu. Cái đó có quan hệ gì...
Chẳng bao lâu đại bác sẽ phá huỷ hết. Chúng tôi moi sôcôla trong kho ra và
ăn từng tảng một. Cát bảo yên bụng mà ăn cái này thì tốt lắm.. .
Suốt mười lăm ngày như thế, chúng tôi chỉ việc ăn: uống và rong chơi
nhởn nhơ. Chẳng có ai quấy rầy gì cả. Đại bác dần dần phá huỷ hết cả làng
và chúng tôi sống thật là khoái. Khi nào trong kho quân lương còn cái chén
được, là chúng tôi còn phớt đều và chúng tôi ước ao một cách đơn giản là
giá chiến tranh chấm dứt ngay ở đây thì tuyệt quá.
Jađơn đâm ra chơi sang đến mức xì gà chỉ hút nửa điếu thôi. Nó tuyên bố
một cách kên kiệu rằng đó là thói quen của nó. Cát cũng thế, cũng ra vẻ
lắm.
Buổi sáng, vừa mở mắt, câu đầu tiên của anh ta là: "Min, mang cà phê
với trứng cá muối lại đây! " Chúng tôi trở nên lịch sự một cách lạ lùng đứa
nào cũng coi bạn mình như là quân hầu, anh anh ta ta một cách trịnh trọng,
và ra lệnh "Cốp, chân ta ngứa đây, anh bắt cho ta con rận". Vừa nói, Lia
vừa giơ chân cho nó như một cô đào hát, còn Anbe thì lôi Lia ta lên đến tận
đầu cầu thang. "Jađơn... " - "Gì... " - "Jadơn, anh cứ đứng tự nhiên, mấy lại
người ta không nói "gì" mà phải nói là: xin nghe lệnh. Nào, Jadơn! ". Thế
là, Jađơn ta, bằng cử chỉ và lời nói lại đóng vai Gợt Béclichingơn (Hiệp sĩ
Đức, thế kỷ thứ XV) một cách đặc sắc. Nó đóng cái vai này tuyệt lắm.
Tám ngày sau, chúng tôi nhận được lệnh rút. Thế là hết cả hào hoa
phong nhã. Hai xe vận tải lớn đến đón chúng tôi. Hai chiếc xe chở đầy ăm
ắp ván gỗ.
Nhưng Anbe và tôi cố xếp lên cái giường có đỉnh màn với riềm lụa xanh,
với đệm và hai cái chăn con có đăng ten. Trong góc, mỗi đứa chúng tôi có
một bị đầy những món ăn hảo hạng. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại sờ, nắn;
những khúc dồi hun, chắc nịch, những hộp xúc xích gan, những hộp thức