Nó bị cưa cả cái chân. Bây giờ, nó hầu như không nới không rằng gì nữa,
nhưng nó đã bảo lúc nào nó vớ được khẩu súng lục là nó tự tử ngay.
Lại một chuyến nữa đến. Phòng chúng tôi nhận thêm hai người mù. Một
trong hai người là một nhạc sĩ rất trẻ. Khi các bà xơ cho nó ăn, không bao
giờ'các bà ấy đem dao đến vì có lẩn nó đã giằng được một con dao của một
bà. Mặc dầu đã đề phòng như vậy mà vẫn có chuyện xảy ra. Buổi tối, trong
bữa ăn, bà xơ đang cho nó ăn có việc phải chạy đi chỗ khác; bà ta để cái ớ a
và cái nĩa trên bàn ăn. Thế là gã mù sờ soạng tìm được cái nĩa, dùng hết sức
đâm thẳng vào ngực; rồi nó vớ lấy một chiếc giày, đập lia lịa vào chuôi nĩa.
Chúng tôi kêu cứu, phải ba người mới nhổ được cái nĩa ra. Những răng nĩa
cùn cắm sâu vào ngực. Suốt đêm nó chửi bới chúng tôi, làm chúng tôi
không ngủ được. Sáng hôm sau, nó lên một cơn khóc dữ dội.
Những cái giường lại vắng đi. Ngày lại ngày trôi qua giữa bao nhiêu đau
đớn và lo âu, giữa những tiếng rên rỉ và những cơn thở rốc. Những phòng
chết chẳng còn được việc lắm nữa. Chúng có quá ít, ban đêm bệnh nhân
chết ngay trong phòng chúng tôi. Nhanh hơn cả sự tính toán của các bà xơ.
Nhưng một hôm, cánh cửa mở ra đột ngột, chiếc xe mặt phẳng tiến vào
và chúng tôi thấy trên cáng, anh chàng Petơ xanh rớt, gầy guộc, cái đầu đen
xì, xoăn tít, lởm chồm; nó ngồi nhỏm dậy với một vẻ đắc thắng. Bà xơ
Libéctin, nét mặt hân hoan rạng rỡ, đưa nó đến giường cũ. Nó từ phòng
chết trở lại. Chúng tôi tưởng nó đi đứt từ lâu rồi.
Nó nhìn xung quanh rồi hét lên:
- Thế các cậu bảo sao nào...
Chinh Giô dép cũng phải thú nhận rằng đó là lần đầu tiên anh ta thấy như
vậy.
Dần dần, vài ba người trong bọn chúng tôi được phép đứng dậy. Người
ta phát cho tôi một đôi nạng để đi lại loanh quanh dăm ba bước. Nhưng tôi