Thời gian luyện tập quân sự kéo dài mười tuần lễ và số ngày ấy đủ thay
đổi chúng tôi một cách căn bản hơn là mười năm trên ghế nhà trường.
Chúng tôi đã học được rằng một cái cúc áo đánh bóng cẩn thận còn quan
trọng hơn là cả bốn tập sách Scôpenhacơ. Lúc đầu chúng tôi ngạc nhiên, rồi
đến bực bội, sau cùng là mặc kệ, chúng tôi nhận thấy không phái trí tuệ có
vẻ chiếm phần ưu thế, mà là cái bàn chải đánh xi, không phải tư tưởng mà
là "quy tắc”, không phải sự tự do mà là cách luyện tập. Chúng tôi đã đi lính
với tất cả lòng hào hứng và tự nguyện, nhưng người ta đã làm đủ thứ để
chúng tôi chán ngán. Sau ba tuần lễ, chúng tôi đã hiểu rất rõ rằng một gã
phu trạm đeo lon có uy quyền đối với chúng tôi hơn cả bố mẹ chúng tôi
trước kia, hơn cả những người dạy dỗ chúng tôi, hơn tất cả những bậc thiên
tài của nền văn hóa, từ Platông cho đến Gợt. Với những cặp mắt non trẻ và
rất linh lợi, chúng tôi nhìn thấy cái khái niệm cổ điển về tổ quốc mà các
thầy giáo trước kia nhồi cho chúng tôi, bây giờ tới đây đã đạt đến chỗ tước
đoạt nhân cách mà người ta chẳng bao giờ dám làm đối với cả những người
đầy tớ hèn hạ nhất.
Chào, đứng nghiêm, đi nghiêm, bồng súng, quay bên phải, hoặc quay
bên trái, đập gót chân, chịu dựng những lời sỉ vả, va vấp hàng nghìn
chuyện, thật thế, trước đây chúng tôi đã nghĩ đến cái sứ mệnh của chúng tôi
với một ý nghĩ khác hẳn, thế mà nay chúng tôi thấy người ta chuẩn bị cho
chúng tôi trở nên những bậc anh hùng y như người ta tập ngựa trong rạp
xiếc vậy.
Nhưng rồi cũng quen thôi. Thậm chí chúng tôi cũng biết rằng một phần
của những cái đó là cần thiết, nhưng cái phần còn lại kia thì thật là thừa.
Con nhà lính rất tinh đối với những chuyện như thế.
Lớp học của chúng tôi bị chia thành từng nhóm ba người, bốn người, đợi
đưa vào các phân đội: chúng tôi cùng ở với những anh thuyền chài, những
anh nông dân, những anh thợ nhà máy, những anh thợ thủ công người xứ