Ban đêm thật là khó chịu. Chúng tôi không tài nào ngủ được, cứ mở mắt
nhìn trừng trừng và ngủ gà ngủ gật. Jađơn tiếc rằng chúng tôi đã phí phạm
vất cho chuột những mẩu bánh mà chúng đã gặm. Đáng lẽ nên cất đi cẩn
thận mới phải. Hẳn bây giờ chẳng ai chê. Nước cũng thiếu, nhưng không
khổ vì cái ấy lắm.
Gần về sáng, lúc còn mờ mờ, đã xẩy ra một chuyện náo động; một đàn
chuột chạy trốn đã lao vào cửa hầm chúng tôi. Chúng leo lên dọc khắp các
bức tường. Các ngọn đèn bấm chĩa vào cái đám hỗn độn ấy. Tất cả mọi
người kêu ầm lên, chửi rủa, và đập lũ chuột túi bụi. Thế là mối giận dữ và
thất vọng bấy lâu chứa chất được dịp trút tung ra. Mặt nhăn tay đập; lũ
chuột kêu rít lên. Phải khó khăn mới ngừng tay lại được và chỉ một li nữa là
chúng tôi xông vào đập lẫn nhau.
Trận xung phong này làm chúng tôi mệt lử.
Chúng tôi lại nằm xuống và đợi. Thật là một sự kỳ lạ, hầm chúng tôi
chưa ai việc gì cả. Đó là một trong số ít căn hầm sâu còn đứng vững được.
Một thầy cai bò vào, mang theo một cái bánh. Ba chú lính, ban đêm đã
vượt qua được hàng rào lửa, mang vào được ít lương thực. Họ cho biết là
trận pháo kích, không hề giảm cường độ, đã tràn cả đến vị trí pháo binh.
Người ta tự hỏi, đối phương đã kiếm đâu ra lắm súng thế.
Chúng tôi cứ phải đợi, đợi mãi. Khoảng giữa trưa, điều chúng tôi lo sợ
đã xẩy ra. Một cậu lính mới lên cơn. Từ lâu, tôi đã chăm chú theo dõi hắn,
trong khi hắn luôn luôn nghiến răng, nắm và ghì chặt bàn tay.
Chúng tôi đã quen với những đôi mắt trố ra và hoảng hốt như vậy. Mấy
giờ gần đây, chỉ có bề ngoài là hắn bình tĩnh hơn; hắn buông phịch người
xuống như một cây gỗ mục.
Bây giờ, hắn lại nhỏm dậy, len lên bò qua hầm, dừng lại một lát rồi trườn
ra cửa. Tôi vừa ngăn lại vừa hỏi: