một món thuốc đối chứng bệnh này và cũng chẳng khó uống, vị mặn có hơi chát, độ lượng có thể uống
từ 5 phân đến 1 chỉ, nước 3 phần có thể tan một phần, chỉ có acide nho thì vị rất chua không thể uống
được. Nhân nghĩ trong dạ dày có sẵn nước chua, chỉ cần uống với nước nho là được rồi, tôi dùng ống
thí nghiệm trước có chứa muối để tránh sự hại cho nước chua dạ dày, bấy giờ thêm chút ít nước nho
rồi cho Tịch Thạch vào. Lúc đó không thấy phát tác dụng như trước, đến khi thêm Carbonate de
Potassium liền phát sôi lên cuồn cuộn mà tiêu hóa mau hơn. Tiến tới một bước nữa, thử dùng nghĩa vật
loại tư cảm, dùng Tịch Thạch làm món dẫn, hòa vào chút ít bột luyện ngà với Carbonate de Potassium
nặng đựng vào bọc nhựa, để nơi có nhiệt độ 37oC, tự nhiên tiêu hóa rất mau, chỉ độ 14 lần thì có thể
hóa hết. Do đó mà tôi bừng lên quán thông, quyết định có thể dùng Tịch Thạch để trị những bệnh đồng
loại và để cho những người không có bệnh này cùng chung thí nghiệm.”
Đến tháng 9 năm Nhâm Thân, chợt có một người con gái, thầy thuốc bảo là có bệnh Ung Thư ở Bao
Tử, không mổ không khỏi. Ban đầu cũng rất nghi sợ, sau rốt người nhà quyết định đưa đi mổ. Người
con gái kêu la nhất định không chịu mổ. Người cô bèn xin ngưng lại. Vì người con gái uống thuốc rất
dễ, nên dùng nước nho thêm acide cho uống thường ngày. Ngày uống 3 lần mỗi lần độ 2 lượng, phụ
thêm thuốc bộc nhựa mỗi lần 3 viên như trên, mỗi viên nặng độ một phân quốc tế. Sau khi uống giây
lát liền phát lên ợ hơi, lồng ngực dạ dày cảm giác thông khoái và tiểu tiện rất nhiều. Tôi lại sợ chất
này vào bọng đái hoặc biến ra sạn bèn dùng nhân công thêm phương thức Nhĩ Tư Tuyền Diêm (?) và
đổi lại dùng chất Carbonate de Na ra Carbonate de Potassium nặng cho dẫn vào Ruột để bài tiết theo
đại tiện thấy tiện lợi hơn, rồi lần lần thuyên giảm. Sau đấy, cô gái về quê hương để tảo mộ độ một
tháng, năm sau cho biết đã khỏi, đến nay chưa thấy tái phát và mỗi ngày vẫn uống acide nho độ 3 chén,
sự ăn uống cũng tăng cường và lấy chồng sanh được một con, mạnh dạn như thường, không thấy bệnh
tật gì. Có lẽ vì trong chất nho có hàm chứa chất Sắt có thể bổ huyết, như thế đủ thấy số lượng Tịch
Thạch rất nhỏ, tổng cộng không hơn 90 phân quốc tế mà thôi. Nếu đem tỷ lệ so sánh với Mã Bửu thì
trên thị trường theo giá cũ mỗi phân 2 đồng, mỗi một phân quốc tế trên 5 đồng cũng vẫn còn dùng
được. Nếu tổn phí về giải phẫu thì có thể phải đến trên 1.000 đồng, làm cho người nhà hoảng hốt rụng
rời, còn giữ gìn điều dưỡng hàng nửa năm nữa thì sự tổn phí không thể tính trước. Nhân nghĩ người
con gái được cách trị này mà khỏi chết thật là vật quý cứu người. Trong bản thảo có Nhân Trung
Huỳnh, Nhân Trung Bạch, v.v… ở đây có thể đặt tên là Nhân Trung Bửu cũng phải lắm vậy.
Phạm Chánh Nho nói: “Xét qua việc kể trên về Nhân Trung Bửu, tức là ở Bản thảo Cương Mục quyển
thứ 12, bộ Người là Tịch Thạch nói rằng: ‘Có thể trị khỏi bệnh Kiên Tịch, Ế Cách’. Xét qua, sách này
là của Lý Thời Trân đời nhà Minh tập đại thành những dược vật của nước ta, đến nay mấy trăm năm
vẫn chưa mất hẳn giá trị. Ở nước Nhật, những vị Trung y đã từng phiên dịch trọn bộ gọi là Quốc Dịch
Bản thảo Cương Mục, đủ thấy người ta chú trọng dường nào”. Sách nói về Tịch Thạch ở Tập Giải có
nói: “Có người vì chuyên tâm mà thành bệnh và bệnh trừng khối ngưng kết thành đá cũng như Ngưu
Hoàng, Cầu Bửu, Tạc Đáp, v.v… đều là một thứ bệnh của các loài thú. Hãy xem Sao sa Thành Đá,
chứng sạn Bọng Đái, sạn Thận, v.v… nên quyển Cách Vật Luận có nói ‘Đá là hạch của khí’. Các sách
có chép như truyện Bửu Khuê Hóa Thạch, Lão Thọ Hóa Thạch đều là sự biến đổi lạ thường của vật vô
tình. Cá, Rắn, Tôm, Cua đều có thể hóa đá, đó cũng là sự biến lạ của loài hữu tình. Sử nước Tống
chép, có một thợ đá đi tìm hoa, lạc vào hang 3 năm, khi cứu ra còn sống gặp gió bèn hóa đá. Đây
chẳng qua là khí đá hóa thành Sodium, lâu ngày bị toàn hóa. Vả chăng, hình sống còn hóa đá trọn thì sự
chuyên tâm và bệnh Trừng Tịch hóa đá cũng là việc có lý vậy.”