Xúc chẩn là phép khám để dò tìm nơi có bệnh. Giờ đây chúng ta bàn đến xúc chẩn. Ở Nội Kinh có
phép khám bụng và lưng, đó là hai phép mở đầu cho xúc chẩn. Chứng Ung Thư đối với xúc chẩn càng
quan hệ mật thiết hơn, như Ung Thư ở cần cổ, ở vú, ban đầu không chút mảy may đau đớn. Thử lấy tay
sờ vào cảm thấy có hạch cứng, hoặc bướu thịt cứng. Lại tới một bước nữa dùng phép kiểm nghiệm tất
phải phối hợp với sự kiểm tra bằng quang tuyến. Cũng có khi ở dưỡng đường, người ta dùng phương
pháp cắt lấy một chút da thịt chỗ bệnh dùng kính hiển vi mà quan sát.
Gần đây nước Mỹ có một nhà khoa học và là một giáo sư của viện Đại học Y khoa Gia Nhĩ mới phát
minh một phương pháp dùng huyết thanh (Sérum) để nghiệm chứng Ung Thư. Trong thực nghiệm phẩm
huyết thanh của người bình thường với chất Proteus Antigen, khi cho hỗn hợp vào trong ống thí nghiệm
liền hiện phản ứng, đó là phản ứng kết khối (Clumping), tên khoa học gọi là phản ứng ngưng kết
(Agglutination). Nếu là huyết thanh của người có bệnh Ung Thư, cũng như trẻ con từ 5 tuổi trở xuống,
khi hòa với chất Proteus Antigen thì thấy hiện tượng không có năng lực kết khối. Ngoài ra, 95% người
trưởng thành bình thường và 73% đàn bà chửa đều có năng lực kết khối. Người bệnh lao Phổi, bệnh
tinh thần, người chưa mắc phải bệnh Ung Thư và đã mắc phải bệnh Ung Thư được trị xong bằng giải
phẫu thì huyết thanh của họ cũng đều có năng lực kết khối cả. Như thế nghĩa là huyết thanh cộng với
Proteus Antigen nếu mất hẳn sức kết khối, tức là hiện tượng rõ chứng Ung Thư của thời kỳ thứ nhất
vậy. Nhân đây ta thấy cách thử huyết thanh này có một giá trị đặc biệt với bệnh Ung Thư trong thời kỳ
đầu, là thời kỳ rất khó khám vậy. Như có thể vận dụng phép này thì có thể đạt được sự phát giác rất
sớm, có thể kịp thời chữa trị thì bệnh Ung Thư không khó gì tiêu diệt. Phép thử này chỉ cần tốn ít phút,
bất cứ sở thí nghiệm nào cũng có thể làm được, chỉ cần tốn ít giọt máu và chút ít dụng cụ thì có thể
nghiệm biết. Cách khám phá bệnh Ung Thư như đã kể trên đều có giá trị lợi ích rộng rãi, phải được gia
tăng sự phổ biến, làm cho mỗi người luyện thành tập quán kiểm tra có kỳ hạn thì sự uy hiếp của bệnh
Ung Thư không chỗ trốn núp vậy. Trị bệnh Ung Thư trong thời kỳ đầu tiên không những mau công hiệu
lại dễ trị khỏi. Tôi rất mong người bệnh muôn lần chớ nên thối thác để khỏi đưa từ bệnh nhẹ sang bệnh
nặng, và nặng lần đến nguy vậy.
Đối với Đông y trên sự chẩn đoán tuy có những phương pháp vọng, văn, vấn, thiết v.v... nhưng đó chỉ
là thuộc về hạng người trí huệ tương đối khá cao, kinh nghiệm phong phú, thì sự phán đoán bình tĩnh
thật có chỗ độc đáo. Nhưng phổ thông không dùng phép thử máu để nghiệm bệnh truyền nhiễm. Tôi còn
nhớ khi tôi ở Trùng Khánh, có lần thầy Tiêu Dị Đường bị sốt rét, nhân thể chất suy nhược, ban đầu chỉ
có sợ lạnh, phát nóng nằm vùi vài hôm. Vì thầy là Viện trưởng Viện Trung y Trung ương, nên giới bạn
bè Trung y quan hệ rất đông như Trương Giảng Trai, Trần Tôn Trai, Khâu Tú Thiên, Đường Xuân
Dương, v.v... đều có chẩn trị qua. Ông thì nói lạnh, ông lại nói nóng, người này nói khí hư, người kia
nói huyết kém. Mỗi người đều cho uống đến mấy chén cũng không thấy ai có công hiệu. Anh của Viện
Trưởng với tôi rất để ý đến sự phát triển bệnh tình này. Tôi bèn đưa kiến nghị trước nhất nên thử máu,
kế đó mới thực hành quyết định phương pháp trị liệu vì mỗi ngày xế chiều bệnh tình trở nên trầm trọng,
nhiệt độ cao hơn buổi mai, tinh thần ngày càng kém sút. Anh của Viện Trưởng bèn cấp tốc gọi điện
thoại cho Hữu Nhiệm tiên sinh và tỉ mỉ báo cáo hết tình hình, đồng thời nhờ tiên sinh gọi điện thoại
cho Lương y Thoại Hằng là Viện trưởng Y viện Trung ương để nhờ y viện cấp cứu. Sau khi thử máu
mới hay là sốt rét rừng. Từ đó nằm luôn trong y viện được nửa tháng là khỏi. Khi ra khỏi y viện lại
uống thuốc chén để điều lý mới hoàn toàn hồi phục. Tôi thường thấy những thầy thuốc Trung y ngày
nay khám bệnh kẻ bàn thấp người bàn cao và phán đoán bệnh tình rất là vi diệu, làm cho chúng ta càng
thêm kinh ngạc! Tại Hương Cảng có đến 9 chỗ khám bệnh có quang tuyến X và phòng thí nghiệm, đó