phiếu hay không. Keith nói anh hoàn toàn hài lòng để không tham gia bỏ
phiếu nghị quyết thứ nhất. “Thật là cao thượng”, Williams nói với nụ cười
mỉa mai.
Ủy ban với 10 thuận, 7 chống và 1 trắng thông qua nghị quyết người anh
em Townsend không đủ tư cách ứng cử vào ghế chủ tịch. Williams kiên
quyết đòi kết quả bỏ phiếu phải được ghi vào biên bản cuộc họp, đề phòng
có người kiện cáo. Keith nói thẳng thừng rằng anh không có ý định ấy.
Williams vẫn với nụ cười mai mỉa trên môi.
Keith không ở lại nghe kết quả bỏ phiếu nghị quyết thứ hai. Anh về
phòng từ rất lâu trước đó. Anh không được nghe cuộc bàn cãi kéo dài về
việc khi bây giờ chỉ có một ứng cử viên vào ghế chủ tịch thì có cần phải in
phiếu nữa không.
Ngày hôm sau, một vài sinh viên tỏ ý tiếc về việc Keith bị tước quyền
ứng cử. Nhưng anh đã đi đến quyết định rằng Công Đảng không có khả
năng bước vào thế giới thực trước khi kết thúc thế kỷ này, và anh không thể
làm gì được về chuyện đó, cho dù anh có được bầu làm chủ tịch đi nữa.
Đêm đó, ông hiệu trưởng ngồi nói chuyện với Keith. “Tôi hoàn toàn
không buồn với kết cục đó, bởi vì tôi phải báo cho cậu biết, thầy hướng dẫn
thảo luận cho rằng nếu cậu cứ tiếp tục buổi đực buổi cái như trong hai năm
vừa rồi, rất nhiều khả năng cậu sẽ chẳng đỗ đạt gì ở cái trường này”.
Trước khi Keith kịp lên tiếng tự bảo vệ mình, vị hiệu trưởng nói tiếp;
“Tất nhiên tôi biết cái văn bằng Oxford chẳng quan trọng lắm đối với một
người đã chọn nghề nghiệp như cậu, nhưng tôi chỉ xin gợi ý để cậu suy
nghĩ là cha mẹ cậu sẽ vô cùng thất vọng nếu sau ba năm học ở đây, cậu
mang về cho họ hai bàn tay trắng”.
Trở về ký túc, đêm đó Keith nằm suy nghĩ một cách cẩn thận về lời cảnh
cáo của ông hiệu trưởng. Nhưng chính lá thư mấy ngày sau anh nhận được
mới thực sự thôi thúc anh hành động. Mẹ cho biết cha anh bị nhồi máu cơ
tim nhẹ, và bà hy vọng không lâu nữa, anh sẽ sẵn sàng gánh vác bớt một
phần trách nghiệm cho cha mình.
Keith lập tức đặt điện thoại đường dài gọi cho mẹ ở Toorak. Khi máy
thông, điều đầu tiên anh hỏi là bà có muốn anh trở về nhà không.