quầy rượu. Anh ta gọi một chai Tom Collins, và người trông nom quầy
nhìn Armstrong gật nhẹ. Anh chuyển đến ngồi cạnh Hallet.
Anh tự giới thiệu và nhanh chóng biết rằng Hallet hiện đang sốt ruột chờ
lệnh giải ngũ, trở lại Lincoln’s Inn Fields tiếp tục hành nghề luật sư.
“Để tôi xem có thể giúp đẩy nhanh thủ tục được không”. Armstrong nói,
thừa biết rằng ở văn phòng đó, anh hoàn toàn chẳng có ảnh hưởng gì.
“Rất cảm ơn anh bạn”, Hallet nói. “Nếu anh cần tôi giúp gì để đáp lại thì
đừng ngại cho tôi biết”.
“Chúng ta ăn một chút gì chứ?” Armstrong gợi ý, rồi bỏ chiếc ghế cao,
đưa anh chàng luật sư về phía chiếc bàn ở góc phòng yên tĩnh. Armstrong
gọi món ăn, bảo viên hạ sĩ mang cho một chai vang từ giá rượu đặc biệt.
Anh dẫn dụ anh chàng luật sư vào chủ đề mà anh thực sự cần tư vấn.
“Tôi quá hiểu những vấn đề mà những người Đức này gặp phải, vì tôi
cũng là dân Do Thái”, Armstrong nói trong khi rót thêm rượu vào cốc cho
anh bạn.
“Anh làm tôi thật sự ngạc nhiên”, Hallet bảo. “Nhưng đại úy Armstrong
này”, anh ta nói thêm trong khi nhấp rượu, “anh rõ ràng là một người đầy
những chuyện ngạc nhiên”.
Armstrong chăm chú nhìn sang, nhưng không thấy nét giễu cợt nào.
“Anh có thể giúp tôi trong một trường hợp khá thú vị mới đưa tới văn
phòng của tôi”, anh ướm thử.
“Tôi sẽ rất vui nếu giúp được anh”. Hallet trả lời.
“Thế thì tốt quá”, Armstrong nói, không động đến cốc rượu. “Tôi muốn
biết một người Do Thái Đức có quyền gì nếu trước chiến tranh anh ta phải
bán cổ phần của mình trong công ty cho một người không phải Do Thái.
Bây giờ khi chiến tranh kết thúc, anh ta có quyền đòi lại không?”
Tay luật sư dừng một lát, và lần này có vẻ hơi bối rối. “Chỉ khi người
mua tử tế bán lại cho anh ta, nếu không thì không thể làm gì khác. Đó là
luật Nuremberg năm 1935, nếu tôi nhớ chính xác”.
“Có vẻ không được công bằng lắm”, Armstrong nói gọn lỏn.
“Đúng vậy”, anh ta vừa uống vừa trả lời. “Quả thật không công bằng.
Nhưng đó là luật từ thời đó, sự thể bây giờ đã khác, nhưng không có một