nghiên cứu danh mục hàng mà cậu có thể đọc thuộc lòng hơn bất cứ bảng
nào trong tập từ vựng La Tinh của Kennedy: “Kẹo bạc hà, 8 xu; khoai rán
4 xu; kẹo anh đào 4 xu; nước chanh, một shilling. Hãy đến ngoài phòng để
đồ số 19 thuộc phòng thay đồ của lớp trên vào lúc 5 giờ chiều ngày thứ
Năm. Khẩu hiệu của chúng tôi là: Ai đến trước được phục vụ trước.”
Keith giữ vẻ mặt bình thản trong khi lẽo đẽo đi dọc hành lang. Vào đến
phòng thay đồ, Keith thấy thầy chủ nhiệm và thầy dạy thể thao đã đứng
ngay cạnh ngăn để đồ của cậu.
“Mở ra, Townsend”, ông hiệu trưởng nói cộc lốc.
Keith tra chìa vào ổ và từ từ xoay. Cậu mở cánh tủ trong khi bốn người
cùng nhìn vào trong, ông Jessop ngạc nhiên thấy chẳng có gì trong đó
ngoài chiếc gậy chơi cricket, một đôi nịt gối và một chiếc áo trắng nhầu nát
trông như đã được mặc liền mấy tuần. Ông hiệu trưởng có vẻ tức giận, thầy
chủ nhiệm ngượng ngùng, còn thầy thể thao thì lúng túng.
“Có thể các thầy nhầm với học sinh khác chăng?” Keith hỏi với vẻ mặt
rất ngây thơ.
“Khóa lại và trở về lớp ngay, Townsend”, thầy chủ nhiệm bảo. Keith
vâng lời, gật đầu với vẻ nhơn nhơn và từ từ đi dọc hành lang về lớp.
Khi đã ngồi xuống ghế, Keith vẫn chưa biết mình phải hành động như
thế nào. Liệu cậu nên lấy lại số hàng, thu hồi vốn, hay nhắn ai đó đến chỗ
giấu hàng, bán tống bán tháo rồi thôi luôn?
Desmond Motson quay lại nhìn cậu. Nó có vẻ ngạc nhiên và thất vọng
thấy Keith lại được quay về lớp. Keith mỉm cười với nó và lập tức biết cần
phải chọn cái nào trong hai giải pháp trên.