Sái Bá Giai: chỉ Sái Ung tự Bá Giai, người quận Trần Lưu cuối thời
Đông Hán, thông hiểu kinh truyện, thiên văn, âm luật, giỏi làm thơ phú,
từng hạch tội hoạn quan mà bị đày lên miền Sóc Phương. Sau đó Đổng
Trác nắm chính sự, ép về làm quan, Trác chết, bèn bị Đổng Doãn ép chết ở
trong ngục.
Quý Vũ Tử chết thì Tăng Điểm đến cửa nhà người ấy mà hát; Tử
Triết gây nạn thì Tử Sản tự suy xét luận nghị.: Quý Vũ Tử là đại thần của
nước Lỗ, chuyên quyền vun vén riêng khiến cho nước Lỗ suy yếu, sau khi
chết thì kẻ sĩ trong nước là Tăng Điểm vui mừng, đến trước cửa nhà Quý
Vũ Tử mà hát.
Thần tọa: tấm bài vị khắc họ tên người đã mất để thờ cúng thời xưa.
Trọng Ni: chỉ Khổng Khâu tự Trọng Ni, tức Khổng Tử, Khổng Phu
tử, Phu tử.
武射吏) là quân giải võ nghệ bắn tên được chọn
từ các quận huyện của nước Ngô.
Hai miền: chỉ hai miền Kí Châu và Tây Lăng của nước Ngô. Kí Châu
của nước Ngô ở gần nước Thục, khác Kí Châu của nước Ngụy.
Chín người hiền: theo truyền thuyết, vua Thuấn có chín viên quan tài
năng giúp việc là: Vũ (
禹) coi việc trị thủy; Khí (弃) coi việc trồng lúa;
Cao Dao (
皋陶) coi việc hình pháp; Thùy (垂) coi việc chế tạo công cụ;
Quỳ (
夔) coi việc âm nhạc, Bá Di (伯夷) coi việc lễ nghi cúng tế, Bá Ích
(
伯益) coi việc chăn nuôi chim thú, Long (龙) coi việc can gián; Tiết (契)
coi việc dạy dỗ dân chúng.
Tây Sở: chỉ Tây Sở Bá Vương là Hạng Vũ.
Hoài Nam: chỉ Hoài Nam Vương là Lưu An. Thời Hán Vũ Đế mưu
phản, sợ ý chí cứng cỏi của Cấp Ảm, nói rằng: “Ưa nói thẳng, giữ tiết tháo
mà liều chết vì nghĩa, khó mà bị mê hoặc. Đến như khuyên can Thừa tướng
Công Tôn Hoằng thì như vặt tóc rơi rụng”.
Chất Đô: Chất Đô (
郅都), người huyện Dương quận Đông, thời Hán
Cảnh Đế làm Nhạn Môn Thái thú, người Hung Nô sợ oai mà không dám