tảng đá trong một khu vườn tôi không phủ nhận rằng chuyện đó không xảy
ra với tôi, nhưng vì lý do nào đó, những lúc như thế không kéo dài lâu.
Nhiều người có tôi lại muốn tống khứ tôi càng sớm càng tốt, nhất là khi
họ phát hiện ra tôi là giả. Tuy nhiên tôi chưa tình cờ gặp người nào chịu
cảnh báo người mua cả tin rằng tôi là đồ giả. Một người môi giới, không
nhận ra tôi là đồ giả, đã đếm ra một trăm hai mươi đồng bạc để đổi lấy tôi,
rồi nguyền rủa chính mình trong cơn thịnh nộ, rầu rĩ và bồn chồn ngay khi
hắn biết mình bị lừa, và những cơn giận dữ này không chịu nguôi ngoai cho
đến khi hắn tống khứ được tôi bằng cách lừa người khác. Trong cơn khó
khăn này, cả khi hắn cố gắng lừa đảo người khác nhiều lần, mỗi lần lại mỗi
thất bại vì sự vội vàng và giận dữ của hắn, hắn lại tiếp tục luôn mồm
nguyền rủa kẻ "bất nhân" nào đã lừa đảo hắn đầu tiên.
Suốt bảy năm qua ở Istanbul, tôi đã được trao tay năm trăm sáu mươi
lần, và không có ngôi nhà, cửa hàng, chợ, quầy sạp, thánh đường, nhà thờ
hay giáo đường Do Thái nào mà tôi chưa vào. Khi lang thang, tôi biết được
rằng số chuyện tầm phào được lan truyền, số truyền thuyết được kể lại và số
lời nói dối xoay quanh tên tôi vượt hơn mức tôi tưởng rất nhiều. Tôi liên tục
bị trách cứ: Chẳng có gì được cho là có giá trị hơn ngoài tôi ra, tôi thật tàn
nhẫn, tôi mù quáng, thậm chí bản thân tôi cũng mê tiền, thế giới bất hạnh
này xoay quanh không phải Thượng đế mà quanh tôi, và chẳng có gì mà tôi
không mua được - ấy là chưa nói gì đến bản chất hèn hạ, tầm thường và bẩn
thỉu của tôi. Và những ai biết tôi là đồ giả thậm chí còn đưa ra nhưng lời
nhận xét khó nghe hơn. Tuy nhiên khi giá trị thực sự của tôi tụt xuống thì
giá trị ẩn dụ của tôi lại tăng lên - ấy là bằng chứng rằng thơ ca là nguồn an
ủi đối với những khốn khổ của cuộc đời. Nhưng bất chấp sự so sánh vô cảm
và sự vu khống thiếu suy nghĩ như thế, tôi vẫn nhận thấy rằng đại đa số thật
sự yêu quý tôi. Trong thời đại đầy hằn thù này, tâm tình cảm thông như thế -
thậm chí đến mức tha thiết - hẳn đã khiến tất cả chúng tôi vui sướng.