lực đều muốn chân dung họ được vẽ như một biểu tượng, một vật lưu dấu
cuộc đời họ và một dấu hiệu về sự giàu có, quyền lực và ảnh hưởng của họ
- để họ có thể luôn luôn hiện diện ở đó, đứng trước chúng ta, khẳng định sự
tồn tại của họ, không, khẳng định cá tính và nét riêng biệt của họ."
Những lời của ông đầy vẻ xem thường như thể ông nói vì lòng đố kỵ,
tham vọng hoặc ham danh lợi. Dù, nhiều lúc, khi nói về những bức chân
dung ông đã thấy ở Venice, gương mặt ông đột ngột sáng bừng như mặt trẻ
thơ, đầy hăm hở.
Việc vẽ chân dung đã trở thành một căn bệnh hay lây giữa những kẻ
giàu có, những ông hoàng và những gia đình quyền quý vốn là kẻ bảo trợ
nghệ thuật đến độ khi họ đặt làm bích họa về các cảnh trong Kinh thánh và
những truyền thuyết tôn giáo cho các bức tường nhà thờ, bọn ngoại giáo
này còn nhất quyết rằng hình ảnh của chính họ phải xuất hiện đâu đó trong
bức tranh. Chẳng hạn như, trong một bức tranh vẽ cuộc an táng Thánh
Stephan, bạn sẽ bất chợt thấy, giữa những người than khóc bên huyệt mộ,
hiện diện khuôn mặt của chính ông hoàng đang dắt bạn đi một vòng - trong
trạng thái hết sức nhiệt tình, phấn chấn và tự phụ - để xem các bức tranh
treo trên tường lâu đài của ông ta. Kế đến, trong góc của một bức bích họa
vẽ Thánh Peter đang chữa cho người bệnh bằng cái bóng của ông, bạn sẽ
nhận ra với một cảm giác vỡ mộng kỳ cục rằng kẻ bất hạnh đang quằn quại
trong cơn đau đó chính là người em trai khỏe như bò mộng của vị chủ nhà
lịch thiệp của bạn. Ngày tiếp theo, lần này trong bức tranh vẽ cảnh Người
chết sống lại, bạn sẽ phát hiện ra vị khách, người đã ngốn thức ăn bên cạnh
bạn lúc bữa trưa.
"Một số người đã đi quá xa, chỉ để được đưa vào trong một bức tranh,"
Enishte của tôi nói, đầy sợ hãi như thể ông đang nói về những cám dỗ của
Satan,"đến độ họ sẵn sàng được vẽ thành một đầy tớ đang rót rượu trong
đám đông hay một kẻ nhẫn tâm đang ném đá một kẻ phạm tội ngoại tình,
hoặc một kẻ sát nhân, hai bàn tay đẫm máu."