nhiều ngốc nghếch hơn bởi họ chưa từng giết người, và giống như tất cả lũ
ngốc, họ làm như có những hảo ý. Sau khi tôi giải quyết thằng cha đáng
khinh đó, việc lang thang khắp đường phố Istanbul trong bốn ngày là đã đủ
cho tôi khẳng định rằng bất kỳ ai với một tia thông minh trong mắt và mảng
tối của tâm hồn hắt trên khuôn mặt đều là một kẻ sát nhân ẩn mình. Chỉ
những kẻ đần độn mới vô tội.
Chẳng hạn như tối nay, trong khi đang làm ấm người lên với một tách cà
phê bốc khói tại quán cà phê nằm ở những con phố nhỏ sau khu chợ nô lệ,
nhìn vào bức vẽ con chó treo trên bức tường cuối phòng, tôi dần dần quên
mất tình trạng khốn khổ của mình và cùng những người khác bật cười trước
mọi điều con chó thuật lại. Rồi tôi có cảm giác một trong số những người
ngồi cạnh tôi là một tên giết người tầm thường giống như tôi. Dù hắn ta
cũng chỉ cười nhạo người kể chuyện giống như tôi, nhưng trực giác của tôi
bị đánh động, hoặc bởi cách cánh tay hán nằm gần cánh tay tôi hoặc do
cách hắn bồn chồn gõ mấy ngón tay vào tách hắn. Tôi không chắc làm cách
nào tôi biết, nhưng bất ngờ tôi quay sang nhìn thẳng vào mắt hắn. Hắn giật
mình và mặt hắn nhăn nhó. Khi đám đông giải tán, một người quen của hắn
nắm lấy cánh tay hắn mà nói, "Bọn người của Nusret Hoja chắc chắn sẽ bố
ráp chỗ này."
Nhướng mày, hắn ra dấu cho người đó im lặng. Nỗi sợ hãi của họ lan
sang tôi. Không ai tin bất cứ ai, mọi người đều có cơ bị người ở kề bên giết
bất cứ lúc nào.
Trời đã lạnh hơn, tuyết rơi đã đóng dày các góc phố và chân tường.
Trong cái dày đặc của đêm tối, tôi chỉ có thể lần ra đường đi dọc theo các
con phố hẹp bằng cách sờ soạng hai tay. Thỉnh thoảng, ánh sáng mờ của
một ngọn đèn dầu vẫn còn cháy đâu đó trong một ngôi nhà gỗ hắt ra từ
những cửa sổ tối đen và những tấm rèm đã kéo xuống, phản chiếu trên
tuyết; nhưng hầu như tôi không thể thấy gì, và tìm đường bằng cách lắng
nghe âm thanh của những lính gác đang gõ gậy trên mặt đá, lắng nghe tiếng