tới. Ý niệm mơ hồ về một người đàn ông như thế thậm chí không thể tìm
thấy được trong những trang sách của cha tôi, và vì thế ắt hẳn tôi đã bị buộc
phải chết mòn trong nhà mãi mãi.
Vẻ đẹp của chồng tôi mang tính huyền thoại, và tôi đã ưng anh thông
qua những người trung gian. Anh ấy đã tìm được cơ hội xuất hiện trước mặt
tôi khi tôi từ nhà tắm công cộng trở về. Đôi mắt anh ấy rực sáng như lửa, và
tôi lập tức yêu anh ấy. Anh ấy có đôi mắt xanh, da sáng, tóc đen và đôi tay
mạnh mẽ; nhưng về cơ bản anh ấy ngây thơ và lặng lẽ như một đứa trẻ đang
ngủ. Tuy nhiên ít nhất với tôi, có vẻ như ở anh ấy cũng có mùi máu, có lẽ vì
anh ấy đã dùng trọn sức mạnh cho việc tàn sát người khác trong trận chiến
và tích góp chiến lợi phẩm, tuy rằng ở nhà anh dịu dàng và lặng lẽ như một
cô gái. Người đàn ông này - người mà cha tôi coi như một anh lính không
đồng xu dính túi, và vì thế đã phản đối - sau đó được phép cưới tôi vì tôi
dọa tự tử. Và sau khi quân đội cấp cho anh một thái ấp trị giá mười ngàn
đồng bạc, một phần thưởng cho chủ nghĩa anh hùng trong hết trận đánh này
đến trận đánh khác mà ở đó anh đã có những thành tích cực kỳ dũng cảm
thì quả thật mọi người đều ghen tỵ với chúng tôi.
Bốn năm trước khi anh không trở về cùng những người lính khác sau
cuộc chiến với người Safavid, thoạt tiên tôi không thấy lo lắng. Bởi, càng
có nhiều kinh nghiệm trên chiến trường, anh lại càng trở nên khôn ngoan và
khéo léo hơn trong việc tạo ra cơ hội cho chính mình, trong việc mang về
nhà những bổng lộc lớn hơn, kiếm được thái ấp lớn hơn, thu nhận nhiều
binh lính dưới quyền hơn. Có những nhân chứng nói rằng anh đã trốn vào
núi cùng binh lính của mình sau khi bị cắt rời khỏi một cánh quân. Ban đầu
tôi e rằng anh có một kế hoạch và hy vọng anh sẽ trở về, nhưng sau hai năm
tôi dần quen với sự vắng mặt của anh, và khi nhận ra có bao nhiêu phụ nữ
cô đơn ở Istanbul giống tôi cũng có chồng là lính trận mất tích, tôi đã cam
chịu số phận mình.