được từ Hungary (anh ấy đã không xiêu theo lời cám dỗ bán nó đi), chiếc
roi làm từ gân những con ngựa Ẳ Rập thiện chiến nhất, bộ cờ làm bằng ngà
voi Tabriz mà bọn trẻ nhà tôi thường dùng để chơi trò chiến tranh và cái giá
cắm nến bằng bạc (chiến lợi phẩm từ trận Nahjivan) mà tôi đã đấu tranh
quyết liệt để giữ lại khi tiền đã cạn.
Như tôi mong đợi, việc rời bỏ căn nhà của người chồng vắng mặt của tôi
đã biến tình yêu thiếu trân trọng và đầy ám ảnh của Hasan thành một địa
ngục vô vọng. Biết rõ rằng cha không ủng hộ mình, nên thay vì đe dọa tôi,
chú ấy mưu tìm lòng thương hại bằng cách gửi cho tôi những lá thư tình mà
ở các góc của trang giấy chú ấy vẽ những con chim cô độc, những con sư tử
mắt rướm lệ và những con linh dương rầu rĩ. Tôi sẽ không giấu bạn chuyện
tôi vừa mới đọc chúng lại một lần nữa, những lá thư đó cho thấy trí tưởng
tượng phong phú của Hasan, điều mà tôi không biết khi chúng tôi còn sống
bên nhau dưới một mái nhà - ấy là nếu như chú ấy không phải nhờ một
trong những người giỏi thơ ca hay hội họa hơn chú ấy viết và tô điểm
chúng.
Trong lá thư gần đây nhất. Hasan trịnh trọng hứa rằng tôi sẽ không còn
là một nô lệ làm việc nhà nữa, và rằng chú ấy đã làm ra rất nhiều tiền. Điều
tiết lộ này trong giọng thư ngọt ngào, trân trọng và hài hước của chú ấy, kết
hợp với những trò đánh lộn và nhu cầu bất tận của bọn trẻ, và những lời
phàn nàn của cha tôi, đã biến đầu tôi thành một cái trống thiếc thực sự.
Thực tình, chính vì muốn thở ra một hơi nhẹ nhõm với thế giới này nên tôi
mới mở những cánh cửa sổ đó.
Trước khi Hayriye dọn bàn ăn tối, tôi chuẩn bị một ngụm bia đắng làm
từ hoa cây chà là hạng nhất Ẳ Rập; tôi trộn vào một thìa mật ong và một
chút nước chanh, rồi nhẹ nhàng bước vào phòng cha tôi khi ông đang đọc
cuốn Kitab al-Ruh, và như một âm hồn 1, tôi đặt nó trước mặt ông mà
không gây chú ý đến sự có mặt của tôi, như ông thích vậy.