cứ câu chuyện nào cả. Nghiên cứu những tờ tranh lẻ như thế, ngài không
thể nói nó mô tả cho cảnh nào hoặc câu chuyện nào; ngài chỉ có thể ngưỡng
mộ nó vì chính nó, vì niềm vui của việc ngắm nhìn mà thôi. Chẳng hạn,
ngài có thể bình luận, "Bức này giống chính xác một con ngựa, nó đẹp làm
sao," và ngài sẽ trả công cho người nghệ sĩ trên cơ sở đó. Những cảnh chiến
trận hoặc làm tình thật phổ biến. Giá trả cho một trận đánh loạn xạ đã
xuống còn ba trăm đồng bạc, và hầu như không có khách hàng nào quan
tâm. Để bán được những bức tranh giá rẻ và để thu hút người mua hơn, một
số bức chỉ được vẽ bằng mực đen trên loại giấy không keo, chưa hoàn chỉnh
mà không có một nét cọ màu nào."
"Có một thợ mạ vàng của ta rất ư phải lẽ và tài năng hết mực," Thầy
Osman nói. "Anh ta coi sóc công việc của mình với vẻ tao nhã đến độ
chúng ta gọi anh ta là "Zarif Kính mến". Nhưng anh ta đã bỏ chúng ta. Đã
sáu ngày rồi mà người ta không thấy anh ta đâu cả. Anh ta đơn giản là biến
mất.
"Sao lại có người có thể từ bỏ một xưởng làm việc, một tổ ấm hạnh phúc
như thế này được nhỉ?" Tôi nói.
"Kelebek, Zeytin, Leylek và Zarif, bốn thợ cả trẻ tuổi giỏi giang mà ta
đã huấn luyện từ khi họ là thợ học việc, nay làm việc tại nhà theo lệnh của
Đức vua", Thầy Osman nói.
Việc này rõ ràng là để họ có thể làm việc thoải mái hơn cho cuốn Sur-
nama vốn là công trình mà cả xưởng đều tham gia. Lần này Đức vua đã
không chuẩn bị một chỗ làm việc đặc biệt cho những nhà tiểu họa bậc thầy
của Ngài trong sân của cung điện; thay vào đó Ngài truyền lệnh họ làm việc
cho cuốn sách đặc biệt này tại nhà. Khi nhận ra rằng chắc chắn lệnh này
được ban hành cho chính cuốn sách mà Enishte của tôi đang làm, tôi câm
bặt. Thầy Osman muốn nói bóng gió gì ở đây?