Nguyễn Văn Hanh.
Novembre
1935: Ô. Vũ Đình Liên diễn thuyết tại hội Trí tri Nam Định.
Fébrier
1936: Ô. Trương Tửu diễn thuyết về thơ Bạch Nga tại hội Khai trí tiến đức Hà Nội.
Trên báo chương cũng luôn luôn có những bài bênh vực, khích lệ thơ mới. Ô. Lưu Trọng Lư gửi hai
bức thư lên Khê Thượng nói chuyện thơ mới với Tản Đà
[12]
. Ô. Lê Tràng Kiều viết tám bài ca tụng
các nhà thơ mới để trả lời Ô. Tùng Lâm và Ô. Thái Phi
[13]
. Ngoài ra còn bao nhiêu bài nữa.
Ở cái xứ vô sự này, câu chuyện câu thơ cơ hồ là câu chuyện độc nhất của một số đông thanh niên
nam nữ. Nhưng đã đến lúc những lời hùng biện trở nên vô dụng. Những thi sĩ có danh đã ra đời: Thế
Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, J.Leiba, Thái Can. Trong khoảng bốn năm, đã
sản xuất rất nhiều bài thơ có giá trị. Và những bài thơ ấy, nhất là những bài của Thế Lữ, không trống
không kèn đã bênh vực một cách vững vàng cho thơ mới.
1935, cái năm đại náo trong làng thơ, đi qua. Bước sang 1936 sự toàn thắng của thơ mới đã rõ rệt.
Đề tựa tập Những áng thơ hay, Ô. Lê Tràng Kiều bàn nên xóa bỏ hai chữ thơ mới. Vì “hai chữ thơ
mới là biểu hiện một cuộc cách mệnh đương bồng bột” mà “cuộc cách mệnh về thi ca ngày nay đã yên
lặng như mặt nước hồ thu”. Ô. Lưu Trọng Lư nở một nụ cười kiêu hãnh, đăng trên Hanoi báo (19-2-
1936) một bài thơ thất ngôn sách họa kết bằng hai câu:
Nắn nót miền sao nên bốn vế,
Chẳng thơ thì cũng cóc cần thơ.
Cái cười khinh mạn của người chiến thắng kể không có gì đáng ưa. Thế Lữ, khôn hơn, chỉ lẳng lặng
nói chuyện với người đồng hương - những người trong làng thơ mới. Từ mục “Lá thắm” của Tinh hoa
đến mục “Tin thơ” của Ngày nay, từ mai 1937 đến octobre 1938, Thế Lữ chăm chú dạy nghề thơ cho
những ai nuôi giấc mộng một ngày kia trở nên thi sĩ.
Thơ mới ra đời ngày một nhiều, cái danh hiệu thơ mới mất dần trên sách báo. Thi đàn đã vắng tiếng
cãi nhau. Cho đến hồi juin năm nay, vì chuyện thơ mới, Ô. Huỳnh Thúc Kháng và Ô. Phan Khôi bắt bẻ
lẫn nhau
[14]
, làng thơ Việt Nam không mấy ai để ý đến những lời qua tiếng lại giữa hai ông già ấy.
Tấn kịch mới cũ trong phạm vi thi ca đã kết liễu. Thơ mới đã giành được quyền sống. Nó chiếm hầu
hết báo chí sách vở, đã len vào đến học đường
[15]
. Mà đã vào học đường, nhất là ở nước ta, tức là
thanh thế đã to lắm.
*
* *
Trước sự bành trướng mãnh liệt của thơ mới, trước mọi sự hô hào rầm rộ của những người trong
phái mới, làng thơ cũ đã phản ứng như thế nào?
Août
1933: Một tuần sau cuộc diễn thuyết thứ nhất của cô Nguyễn Thị Kiêm, Ô. Tân Việt, bình bút
báo Công luận
[16]
bênh vực thơ cũ tại diễn đàn hội Khuyến học Sài Gòn.
Octobre
1933: Văn học tạp chí, Hà Nội, chê các nhà thơ mới không biết cân nhắc chữ dùng.