THIỀN ĐỐN NGỘ - Trang 60

Tham Thien Yeu Chi

6

làm ngại được tự tánh như như bất động. Nên nói:
“Một tâm không sanh, muôn pháp chẳng lỗi lầm”.

Trong đây chữ Khách so phần thô, chữ Trần so
phần tế. Người mới phát tâm trước nhận rõ Chủ và
Khách, tự không bị nó kéo lôi; tiến lên nhận rõ ràng
Không và Trần, vọng tưởng không thể làm chướng
ngại. Nên nói: “Biết được, không phải oán”. Người
hay xét kỹ lãnh hội được chỗ này, sự dụng công tu
hành rất chóng tiến.

c) Thoại đầu cùng nghi tình. - Thời xưa Tổ sư chỉ
thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Như cách
an tâm của Tổ Đạt-ma, lối bàn kiến tánh của Lục Tổ,
chỉ cần thẳng đó thừa nhận là xong, không có khán
thoại đầu. Đến các Tổ sư sau này thấy tâm người
không bằng cổ nhân, không thể tử tâm như khối đất,
mà luôn tráo trở lăng xăng, mọi người chỉ đếm của
báu cho kẻ khác mà lầm nhận là của mình. Bởi thế
nên các Ngài riêng lập môn đình (cảnh riêng) và
mỗi vị chỉ ra một phương pháp, do đó mới dạy
người học khán thoại đầu.

Thoại đầu rất nhiều, như: “Muôn pháp về một, một
về chỗ nào?” hay “Trước khi cha mẹ chưa sanh,
thế nào là mặt thật của ta?” v.v… nhưng phổ thông
hơn cả là câu “Niệm Phật là gì?”.

Thế nào là thoại đầu? Thoại là lời nói, trước lời nói
là đầu. Như niệm A Di Đà Phật là thoại, trước khi
chưa niệm là thoại đầu. Nên nói thoại đầu là cái mé
chưa sanh một niệm. Một niệm vừa sanh đã thành
thoại vĩ (đuôi lời nói). Cái mé chưa sanh một niệm
đó gọi là “không sanh”; không loạn động, không mê
muội, không đắm nơi tịnh, không rơi vào không, gọi
là “không diệt”. Luôn luôn chăm chú trở lại chiếu soi
cái “không sanh không diệt” ấy, gọi là “khán thoại
đầu” hoặc “chiếu cố thoại đầu”.

Khán thoại đầu trước cần phải khởi nghi tình, đó là
chỗ nương nhờ của pháp khán thoại đầu. Sao gọi
là nghi tình? Như hỏi niệm Phật là gì? Người người
đều biết chính mình niệm. Nhưng là miệng niệm
hay tâm niệm? Nếu thật miệng niệm, khi ngủ mê
vẫn có miệng sao không niệm? Nếu thật tâm niệm,
tâm hình dáng thế nào, lại không có chỗ nơi sờ mó?
Nhân chỗ không rõ này, trên chữ gì phát khởi niệm
nghi nhẹ nhàng tế nhị, không cho thô, càng tế càng
tốt. Tùy thời tùy chỗ chăm chú chiếu cố quyết chí
nơi niệm nghi này, giống như dòng nước không có
chỗ đoạn, không sanh hai niệm. Nếu niệm nghi còn
thì không cần để ý đến nó, niệm nghi nếu mất lại
nhẹ nhàng đề khởi lên. Khi mới dụng tâm thì trong
tịnh, trong động so sánh rất đắc lực. Nhưng cốt
không sanh tâm phân biệt, không quan tâm đến
đắc lực hay không đắc lực, không chú ý trong động
hay trong tịnh, ta chỉ nhất tâm, nhất ý dụng công là
tốt.

Bốn chữ Niệm Phật là gì, rất quan trọng tại chữ gì,
ngoài ra ba chữ kia chẳng qua là để nói cho to mà
thôi. Như “mặc áo, ăn cơm là gì?”, “đại tiểu tiện là
gì?”, “phá vô minh là gì?”, “hay hiểu biết là gì?”, bất
luận đi đứng ngồi nằm một khi đề chữ gì lên là dễ
phát niệm nghi, không cần suy nghĩ xét nét để ý
mới có. Cho nên chữ gì trong câu thoại đầu thật tại
là một diệu pháp của tham thiền. Nhưng không phải
đem một chữ gì, hoặc bốn chữ niệm Phật là gì coi
như danh hiệu Phật mà niệm; cũng không phải suy
nghĩ xét nét câu niệm Phật là gì mà cho là nghi tình.
Có một số người đem bốn chữ niệm Phật là gì ra
niệm suốt ngày không dừng miệng, như thế chi
bằng niệm A Di Đà Phật công đức còn hơn. Có một
số người nghĩ quanh tính quẩn, tìm đông kiếm tây
cho đó là nghi tình, đâu biết rằng càng nghĩ càng
tính vọng tưởng càng nhiều, giống như người
muốn lên lại bị rơi xuống, cần phải biết vậy.

Người sơ tâm phát niệm nghi rất thô, chợt dứt chợt
nối, chợt chín chợt sống, đều không được nghi tình,
chỉ gọi là Tưởng. Lần lần thu nhiếp được tâm
cuồng loạn, niệm đầu cũng kềm giữ được chút ít,
mới gọi là Tham. Lại tiến dần dần công phu thuần
thục không nghi mà tự nghi, không biết mình đang
ngồi ở chỗ nào, cũng không biết có thân tâm thế
giới, chỉ riêng niệm nghi hiện tiền không gián đoạn,
đó gọi là nghi tình. Thật tế mà nói, lúc đầu chưa kể
là dụng công chỉ đả phá vọng tưởng, đến khi chân
nghi hiện tiền mới là giai đoạn chân chánh dụng
công. Giai đoạn này như qua cửa ải lớn rất dễ vào
đường tẽ.

Giai đoạn này rất thanh tịnh và vô hạn khinh an,
nếu mất một ít giác chiếu bèn rơi vào trạng thái mê
muội nhẹ nhàng. Nếu khi ấy có bậc sáng suốt ở
bên, một phen nhìn qua liền biết người ấy đang
mắc tại cảnh giới này, lấy một hương bản đập
xuống, lập tức đầy trời mây mù tan hết, rất nhiều
người nhân đây được ngộ đạo.

Chính khi rất thanh tịnh rỗng rang ấy, nếu nghi tình
không còn bèn rơi vào vô ký, ngồi như cây như đá,
hoặc gọi hòn đá ngâm nước lạnh. Đến khi đó cần
phải đề khởi, đề khởi tức là giác chiếu (giác là
không mê, tức là tuệ; chiếu là không loạn, tức là
định) chăm chú một niệm ấy, lặng lẽ chiếu soi, như
như không động, sáng sủa không mê, rành rõ
thường biết, như lạnh nóng rút hơi, một mạch liên
tục không dứt.

Dụng công đến chỗ này cần có con mắt Kim cang
không đề khởi thêm, nếu đề khởi thì đã đầu lại
thêm đầu. Xưa có vị tăng hỏi Triệu Châu Lão nhân
rằng: “Một vật khi không đem đến làm thế nào?”.
Châu đáp: “Buông hết đi!”. Tăng thưa: “Một vật
không đem đến, buông hết cái gì?”. Châu bảo:
“Buông không xuống thì gánh lên!”. Chính là nói
giai đoạn này vậy. Trong cảnh sáng sủa mát mẻ
này như người uống nước lạnh nóng tự biết, không

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.