tóc xé áo chúng tôi. ôi cố che chở cho Emma nhưng cuối cùng lại thành ra
cô ấy che chở cho tôi, ít nhất trong vài khoảnh khắc, bằng cách vung hai
bàn tay ra xung quanh, đốt cháy bất cứ thứ gì cô có thể. Ngay cả ngọn lửa
của cô cũng không đủ để xua bọn họ rời ra khỏi chúng tôi, những cú đánh
vung ra tới tấp đến cho tới khi chúng tôi quỵ gối xuống, rồi lăn ra co quắp
dưới đất, hai cánh tay che chắn cho khuôn mặt, cơn đau dồn dập tới từ mọi
hướng.
Tôi gần như chắc chắn mình sắp chết, hay đang mơ, vì vào khoảnh khắc
đó tôi nghe thấy tiếng hát - một màn điệp khúc ầm ĩ, hào hứng của "Hãy
nghe tiếng búa chan chát đập! Hãy nghe tiếng những cái đinh lún ngập!" -
nhưng mỗi một câu hát lại vang lên kèm những tiếng thịch nặng nề và tiếng
hét to: "(Thịch!) Làm sao khi dựng một giá treo cổ, (Bịch!) trị lành mọi đau
khổ.
Sau vài câu hát và vài tiếng thịch nữa, những cú đánh thôi không còn
trút xuống, đám đông lùi ra xa, cảnh giác và gầm gừ. Tôi nhìn thấy lờ mờ,
qua lớp máu và đất các che phủ, năm người thợ dựng giá treo cổ vạm vỡ,
hông mang thắt lưng treo các món công cụ, búa giơ cao trên tay. Họ đi
xuyên qua đám đông, và lúc này họ bao quanh chúng tôi, nhìn xuống đầy
hoài nghi như thể chúng tôi là một loài cá lạ nào đó họ không trông đợi
đánh được trong lưới của mình.
"Là chúng phải không?" Tôi nghe một người trong họ nói. "Trông chúng
không được tốt lắm, anh họ ạ."
"Tất nhiên là trúng rồi!" một người khác nói, giọng ông ta như một chiếc
còi báo hiệu cho tàu đi trong sương mù, trầm và quen thuộc.
"Là Sharon!" Emma reo lên.
Tôi có thể nhúc nhích bàn tay đủ để gạt hết máu khỏi một bên mắt. Ông
ta đứng đó, cả thân hình cao lớn hơn hai mét khoác áo choàng đen. Tôi cảm