thấy mình đang bật cười, hay cố làm thế; tôi chưa bao giờ mừng rỡ đến thế
khi gặp một người xấu xí đến vậy. Ông ta đang moi thứ gì đó trong túi ra -
những cái lọ thủy tinh nhỏ - và giơ chúng lên cao quá đầu, quát lớn. "TAO
CÓ THỨ CHÚNG MÀY MUỐN Ở ĐÂY, LŨ KHỈ BỆNH HOẠN! LẠI
LẤY CHÚNG VÀ ĐỂ CHO NHỮNG ĐỨA TRẺ NÀY YÊN!"
Ông ta quay người và ném những cái lọ xuống đường. Đám đông ùa
theo chúng, reo hò la hét,sẵn sàng xé xác nhau ra để đoạt được chúng. Và
rồi chỉ còn lại những người thợ dựng giá treo cổ, hơi xộc xệch sau cuộc
loạn đả những không hề xây xước gì, cài lại cái búa của họ vào thắt lưng.
Sharon, sải bước về chúng tôi, chìa một bàn tay trắng như tuyết ra, đang
nói. "Cô cậu nghĩ gì mà lang
thang như thế hả? Tôi lo phát ốm đấy!"
"Phải đấy!" Một trong mấy người thợ nói. "Ông ấy không giữ nổi bình
tĩnh nữa. Buộc chúng tôi đi khắp nơi tìm mấy người."
Tôi cố ngồi dậy nhưng không thể. Sharon đứng ngay trên chúng tôi,
nhìn xuống như thể ông ta đang xem những con thú hoang bị xe tông phải
vậy.
"Cô cậu ổn cả chứ? Có đi được không? Cái lũ bị Chúa đày đọa đáng
nguyền rủa kia đã làm gì cô cậu vậy?" Giọng nói của ông ta nửa như của
một ông thượng sỹ huấn luyện tân binh đang cáu bẳn nửa như của một ông
bố đầy quan tâm.
"Jacob bị đau." Tôi nghe Emma nói, giọng cô rời rạc. "Cả cậu cũng thế."
tôi có nói nhưng không thể điều khiển được lưỡi mình. Có vẻ cô nói đúng:
đầu tôi nặng trịch như đá, tầm nhìn chẳng khác gì một tín hiệu vệ tinh chập
chờn, lúc có lúc mất. Tôi được đôi cánh tay của Sharon nhấc lên, mang đi -
ông ta khỏe hơn nhiều so với vẻ bề ngoài của mình - và một ý nghĩ lóe lên,
tôi cố nói thành tiếng.