thâm độc của kẻ tin những điều vô lý mà hại người. Sau khi tìm được
những hòn đá cuội, ông không nhận là có thần thánh gì nữa.
Nhưng ông lại nghĩ :
- Viên quan Tầu kia đã có những tảng đá để lấp cửa hang trong, hắn đã có
phép giấu vàng kỳ bí hiểm rồi; hà tất phải nhờ đến thần thánh nào khác để
giữ của cho hắn. Ta cần phải biết rõ điều ấy. Vì biết đâu rằng, sau bộ xương
vô giác kia, không còn ẩn những mưu kế gì lừa gạt mình nữa...
Ông đứng yên một lát, trí suy nghĩ, tay vân vê xoắn suýt bộ râu cằm. Sau,
ông cứ gật gù hoài, miệng mím vào như muốn cười, mặt lộ ra vẻ khoan
khoái :
- Phải, phải, chỉ có hai lẽ ấy; chứ viên quan Tầu kia giết người vô ích làm
gì? Một là người Tầu nghĩ đến cách yểm vàng từ trước, từ khi mới để của ở
đây... rồi dần dần mới tính ra, mới dùng cách xây dựng cửa hang bằng thứ
đá cuội nguy hiểm. Hai là bộ xương kia chẳng qua chỉ là xương của một kẻ
bộ hạ theo vào giúp việc trong này. Mà người giúp việc ấy cũng như những
kẻ tải gạch đá vào xây nên cái bệ này đã trông thấy của cải trong này, nên
phải giết đi, để triệt những tấm lòng tham và làm câm những cái miệng
không kín đáo. Thế rồi một ý kiến nảy ra, viên quan Tầu đem người bị giết
đặt lên bệ sau cái cột đá ấy để làm một thứ bù nhìn. Kẻ nào không phải là
người có quyền lấy của, chẳng hạn như ta đây, mà lòng mê tín vẫn còn thì
sẽ bị cái bù nhìn kia làm cho kinh hoàng, có khi còn ám ảnh suốt đời nữa.
Cái bệ mà có bộ xương người ngồi ở một bề thoại trông, ông Châu đã biết
ngay là chỗ đựng của. Bệ này hình chữ nhật, rộng gần bằng dài, và xây
bằng gạch, trông chắc chắn nhưng rất vụng về. Ông quan Thổ lấy mắt ước
lượng thì mỗi bề ngang dọc vào khoảng bốn và năm thước và về cao thì
vừa bằng cái ống cẳng bộ xương. Mặt bệ cũng khá phẳng, gạch xây toàn là
những phiến rất lớn và xem ra rất dầy. Mầu gạch một vài chỗ nâu sẫm như
da sành, nhiều khoảng rêu cáu vừa xanh vừa đen, nhiều chỗ long lở như đất
khô hay mốc bám.
Ở hai bên còn chừa ra hai lối nhỏ đi ra phía sau bệ, đến chỗ cùng hang. Ông
Châu cầm đuốc bước vào. Trần đá càng ở xa càng thấp.