đương thiêng liêng của anh rồi, em có hiểu không, nghĩa là... anh không
tưởng đến bao giờ nỡ bỏ em; anh là bạn em, là chồng em, anh sẽ hỏi em
làm vợ”.
Tâm chưa nói dứt lời Thơ bỗng nức lên, khóc mấy tiếng, ngồi thẳng dậy
vội vã, sợ hãi, đội khăn mặc áo rồi không để cho Tâm kịp hiểu, cô ta vùng
chạy ra ngoài.
“Lòng một người con gái Thổ sao mà phức tạp đến thế kia ư?” Tâm vẫn tự
hỏi lại cho rõ ràng. Anh đã nhất định tìm hiểu cho bằng được, nhất định
không để cho Thơ còn có những cử chỉ lạ lùng như thế nữa, và bắt đầu thấy
quyến luyên, thấy yêu chân thực, và thấy lòng trống trải vì vắng bóng Thơ.
Nhưng Thơ lại không trở lại nữa.
Bao nhiêu tuần lễ ủ rũ, u ám, Tâm đi thơ thẩn các nơi gần đó sau những giờ
học, nhưng không thể nào gặp được Thơ. Anh đến chỗ cối giã gạo là nơi
gặp gỡ ban đầu, anh quanh quẩn ở gần làng, anh hỏi dò Minh là em Thơ
học ở lớp anh một cách kín đáo. Nhưng đều vô ích. Thơ không đến nữa,
không để gặp anh nữa, và hình như không còn tưởng gì đến anh.
Tâm bây giờ mới nhận thấy cái mênh mông của sự buồn thương, thấy nỗi
đau đớn nhớ tiếc của lòng yêu đương, và thấy lời nói anh dùng để an ủi
Thơ hôm nào chính là lời rất thành thực.
Anh nhắc đi nhắc lại:
“Ô hay! Thế ra mình đi mê một người con gái Thổ ư? Một người Thổ mà
cũng làm cho mình buồn tủi đến thế được ư? Vô lý thực!”
Mùa đông tới vội vàng, đem lại tất cả cái lạnh lẽo, buồn tẻ ở nơi chỉ có
những rừng núi này.
Mưa phùn bay mù mịt dai dẳng, phủ kín cả cảnh vật, những ngày u ám
phóng lên nhau, ngày nọ nhắc lại màu thảm đạm của ngày kia. Trên mấy
quãng đồng nước rải trắng xóa giữa những vừng cây âm tối nặng nề.
Những nhà trong các thôn xóm đều im lặng trong mưa và như so ro lại vì
rét.
Được một ngày chủ nhật tạnh ráo, Tâm mặc ấm áo mở cửa ra đi. Hôm ấy
Tâm mới thấy trong người hơi nhẹ nhàng và mừng rằng anh đã có cách
ruồng đuổi hình ảnh Thơ vẫn vấn vương trong tâm tưởng.