Tiếng bước chân của cậu ta vang lên sau lưng chúng tôi và khi chúng tôi
tới cuối con hẻm, Emma ngăn tôi lại. Chúng tôi ngoái lại nhìn và thấy một
cuộn thừng tự trải ra lơ lửng, chạy vắt ngang qua mặt đường lát sỏi ở tầm
cao ngang mắt cá chân. Sợi dây được kéo căng ra đúng lúc đám người đuổi
theo chạy tới nơi, thế là bọn họ vấp phải nó và ngã nhào xuống bùn, thành
một đống hỗn độn chân tay vung vẩy quờ quạng. Emma reo lên, và tôi gần
như chắc chắn mình có thể nghe thấy Millard đang cười.
Chúng tôi chạy tiếp. Tôi không biết vì sao Emma đồng ý gặp Millard tại
Priest Hole, vì chỗ đó ở phía bến cảng chứ không gần phía trại trẻ. Nhưng
vì tôi cũng không thể giải thích vì sao Millard biết chính xác lúc những
chiếc máy bay đó sắp sửa bay qua, vậy nên tôi không bỏ công hỏi. Tôi thậm
chí còn ngỡ ngàng hơn khi thấy mọi hy vọng chui được vào trong mà không
bị nhận ra của chúng tôi đều bị phá hỏng hết bởi thay vì lén vòng ra đằng
sau, Emma lại đẩy tôi đi thẳng vào qua cửa trước.
Chẳng có ai trong quán ngoài người phục vụ quầy. Tôi quay đi cố giấu
mặt.
“Phục vụ quầy!” Emma nói. “Khi nào ở đây bắt đầu bán đồ uống đây?
Tôi khát chẳng kém gì một người cá mắc cạn rồi đây!”
Ông ta phá lên cười. “Tôi không quen phục vụ các cô bé.”
“Đừng bận tâm mấy chuyện đó!” cô gái la lên, đập mạnh bàn tay lên mặt
quầy. “Rót cho tôi bốn phần thứ whisky mạnh nhất nguyên độ rượu chưa
pha của ông. Và đừng có vác thứ đồ rởm pha nước nhạt thếch kinh khủng
ông vẫn hay mang ra phục vụ khách!”
Tôi bắt đầu có cảm giác cô gái chỉ muốn sinh sự - muốn đùa cợt, tôi có
thể nói vậy - để cố vượt mặt Millard và trò chăng dây qua đường của cậu ta.
Người phục vụ quầy bar nghiêng người qua quầy. “Vậy là cô bé muốn
thứ dữ phải không nào?” ông ta vừa nói vừa cười nhăn nhở thật phóng
đãng. “Có điều đừng để bố mẹ cô bé nghe được, nếu không tôi sẽ bị cả ông
tu sĩ lẫn cảnh sát bám theo đấy.” Ông ta lấy ra một cái chai đựng thứ gì đó
sẫm màu trông có vẻ xấu xa rồi bắt đầu rót cho cô gái một cốc đầy. “Thế