sắp chết đói; ông đã ở không đúng chỗ, không đúng thời điểm. “Đáng lẽ
ông cháu không nên sống một mình”, tôi giải thích, “nhưng như bà nói đấy,
ông rất bưởng bỉnh.”
“Ta đã e sợ chuyện này”, bà nói. “Ta đã cảnh báo cậu ấy đừng rời khỏi
đây.” Hai nắm tay bà siết chặt lấy đôi que đan đang để trong lòng, như thể
cân nhắc xem nên dùng chúng để đâm ai. “Và rồi để cháu cậu ấy mang tin
xấu trở lại báo cho chúng ta.”
Tôi có thể hiểu cơn giận dữ của bà. Chính tôi cũng từng trải qua nó. Tôi
cố an ủi bà, viện ra tất cả những sự thật nửa vời nhằm mục đích trấn an mà
bố mẹ tôi cùng bác sĩ Golan đã nói tới trong những khoảnh khắc đen tối
nhất tôi trải qua mùa thu vừa rồi, “Đã đến lúc để ông ra đi. Ông rất cô đơn.
Bà nội cháu đã mất nhiều năm rồi, và đầu óc ông cũng không còn sáng suốt
nữa. Ông luôn quên cái này cái kia, lẫn lộn mọi thứ với nhau. Đó là lý do vì
sao ban đầu ông lại có mặt trong rừng.”
Bà Peregrine buồn bã gật đầu. “Cậu ấy cứ thế để cho mình già đi.”
“Theo khía cạnh nào đó, ông cháu đã gặp may. Cái chết không kéo dài và
dai dẳng. Không phải nằm viện nhiều tháng trời, bị gắn vào đủ thứ máy
móc.” Những lời này thật lố bịch, tất nhiên rồi - cái chết của ông hoàn toàn
vô nghĩa, ghê rợn - nhưng tôi nghĩ nói thế thì cả hai chúng tôi sẽ cảm thấy
dễ chịu hơn một chút.
Bỏ mớ đồ đan sang bên, bà Peregrine đứng dậy và khó nhọc bước tới cửa
sổ. Dáng đi của bà cứng nhắc và vụng về, như thể một chân bà ngắn hơn
chân bên kia.
Bà nhìn ra ngoài sân, về phía những đứa trẻ đang chơi đùa. “Bọn trẻ
không được phép biết chuyện này”, bà nói. “Ít nhất là chưa phải bây giờ.
Điều đó sẽ chỉ làm chúng phiền muộn.”
“Vâng. Tùy theo ý bà thôi.”
Bà lặng lẽ đứng một hồi bên khung cửa kính, đôi vai run rẩy. Cuối cùng,
khi quay lại đối diện với tôi, bà đã hoàn toàn bình tĩnh và lý trí: “Được rồi,