tĩnh và thứ ánh sáng duy nhất trên bầu trời không một gợn mây là ánh trăng
tròn. Bà Peregrine xuất hiện phía trên tôi và chìa tay ra. Tôi nắm lấy tay bà,
loạng choạng đứng dậy, đầu óc quay cuồng.
“Cho ta xin lỗi”, bà nói. “Đáng lẽ ta phải chuẩn bị cho cậu sẵn sàng hơn.”
Dẫu vậy, bà không giấu nổi nụ cười, và cả những đứa trẻ khác cũng vậy
khi họ cởi bỏ mặt nạ ra. Tôi tin chắc mình vừa bị xỉu đi.
Tôi cảm thấy đầu óc quay cuồng, mệt mỏi. “Có lẽ đêm nay cháu nên
quay về nhà ngủ”, tôi nói với bà Peregrine. “Bố cháu sẽ lo lắng.” Rồi tôi
nhanh chóng nói tiếp, “Cháu có thể về nhà chứ, phải không?”
“Tất nhiên cậu có thể”, bà đáp, và lớn tiếng hỏi xem ai tình nguyện đưa
tôi về chỗ ngôi mộ đá. Tôi ngạc nhiên thấy Emma bước tới. Bà Peregrine có
vẻ hài lòng.
“Bà có chắc về bạn ấy không?” tôi thì thầm hỏi cô phụ trách. “Mới vài
tiếng trước bạn ấy còn sẵn sàng cắt cổ cháu đấy.”
“Cô Bloom có thể nóng tính, nhưng cô bé là một trong những học viên ta
tin tưởng nhất”, bà đáp. “Vả lại ta nghĩ cậu và cô bé có thể có vài điều để
trao đổi riêng, tránh khỏi những đôi tai tò mò.”
Năm phút sau, hai chúng tôi đã lên đường, chỉ có điều lần này hai tay tôi
không bị trói và cô gái không còn kề dao vào sườn tôi. Vài thành viên ít
tuổi hơn trong đám trẻ đi theo chúng tôi tới tận rìa sân nhà. Họ muốn biết
liệu ngày mai tôi có quay lại hay không. Tôi đưa ra những lời cam đoan mơ
hồ, nhưng quả thực tôi khó lòng để tâm vào những gì đang diễn ra ngay
trong lúc này, chứ chưa nói gì tới tương lai.
Chỉ còn hai chúng tôi đi vào khu rừng tối tăm. Khi trại trẻ đã khuất hẳn
sau lưng chúng tôi, Emma ngửa một bàn tay ra, lắc cổ tay, và một quả cầu
lửa nhỏ xíu bùng lên ngay phía trên các ngón tay cô. Cô giơ nó ra phía
trước mình như một người bồi bàn bưng khay, ánh lửa soi sáng con đường
và hắt hai cái bóng của chúng tôi lên các thân cây.
“Tớ đã nói với cậu là chuyện đó thật tuyệt chưa nhỉ?” tôi lên tiếng, cố
phá vỡ sự im lặng càng lúc càng thêm khó xử.