Ông ta nói tiếp, giọng lạc đi nhưng lúc này đã đủ lớn để tất cả mọi người
có thể nghe thấy - “Ông ta nằm an nghỉ, đen nhánh, khuôn mặt hiền hòa
mang màu bồ hóng, tứ chi héo tàn như những vỉa than, đôi bàn chân như
những súc gỗ trồi bám đầy những chùm nho héo quắt” - và cuối cùng tôi
cũng nhận ra bài thơ. Đó là bài thơ ông ta viết về cậu bé đầm lầy.
“Ôi, Jacob, tôi đã chăm lo cho ông ta cẩn thận biết bao!” ông Martin nói.
“Lau bụi trên kính, thay đất và làm cho ông ta một ngôi nhà - như chăm đứa
con đã lớn bị bầm giập của chính mình. Tôi chăm lo cẩn thận biết bao, vậy
mà...” Ông ta bắt đầu run rẩy, và một giọt nước mắt chảy xuống gò má ông
ta rồi đóng băng ở đó. “Vậy mà ông ta đã giết tôi.”
“Ý ông là cậu bé đầm lầy sao? Là Ông Lão sao?”
“Đưa tôi trở lại đi”, ông ta cầu xin. “Đau quá.” Bàn tay lạnh giá của ông
ta nắm lấy vai tôi, giọng nói của ông ta lại tắt dần.
Tôi đưa mắt nhìn Enoch cầu cứu. Cậu ta siết chặt các ngón tay cầm quả
tim và lắc đầu. “Giờ hãy nhanh lên, anh bạn”, cậu ta nói.
Thế rồi tôi hiểu ra một điều. Cho dù ông Martin đã mô tả về cậu bé đầm
lầy, nhưng không phải cậu bé đầm lầy đã giết ông ta. Chúng chỉ trở nên hữu
hình với những người còn lại, với chúng ta, khi chúng đang ăn, bà
Peregrine đã nói với tôi như thế, có nghĩa là khi đã quá muộn. Ông Martin
đã nhìn thấy một hồn rỗng - vào ban đêm, trong mưa, trong khi nó xé ông ta
thành từng mảnh - và tưởng nhầm đó là hiện vật trung bày quý giá nhất của
mình.
Cảm giác sợ hãi cố hữu lại sống dậy, làm cả người tôi nóng bừng. Tôi
quay sang những người khác. “Một hồn rỗng đã gây ra chuyện này với ông
ấy”, tôi nói. “Nó đang ở đâu đó trên đảo.”
“Hãy hỏi ông ấy xem ở đâu”, Enoch nói.
“Ông Martin, ở đâu, cháu cần biết ông đã thấy nó ở đâu?”
“Làm ơn. Đau quá.”
“Ông đã thấy nó ở đâu?”