leo lên thuyền cùng cái lồng và chỉ đi vòng vòng, nhưng sau đó thủy triều
lên quá mạnh, vì thế hắn ghé thuyền vào chỗ gò đá có ngọn hải đăng, và
hắn vẫn đang ở đó.”
Chúng tôi hối hả lấy hết sức chạy tới chỗ ngọn hải đăng. Khi tới chỗ vách
đá nhìn xuống nó, chúng tôi tìm thấy những đứa trẻ còn lại trong một bãi
cói túi rậm rạp gần rìa đá.
“Nằm xuống!” Millard khẽ suỵt.
Chúng tôi quỳ gối xuống và bò tới chỗ họ. Đám trẻ đang nằm phục
xuống thành một đám rải rác đằng sau đám cói túi, thay nhau nhìn về phía
hải đăng. Trông họ như bị sốc vì sức ép trái phá - nhất là những đứa bé nhất
- tựa như chưa hoàn toàn tiếp nhận được cơn ác mộng đang diễn ra. Việc
chúng tôi mới vừa sống sót qua khỏi một cơn ác mộng của riêng mình hầu
như không được để tâm tới.
Tôi bò giữa đám cói túi tới rìa vách đá và nhìn ra. Xa hơn chỗ con tàu
đắm nằm chìm dưới nước, tôi có thể thấy chiếc xuồng của Emma được
buộc vào các tảng đá. Không thấy Golan và hai Chủ Vòng Thời Gian đâu.
“Hắn đang làm gì dưới kia vậy?” tôi hỏi.
“Ai biết được”, Millard đáp. “Chờ ai đó tới đón, hoặc chờ con nước đứng
để hắn có thể chèo ra.”
“Trong cái xuồng bé xíu của tớ sao?” Emma hỏi có vẻ hoài nghi.
“Như tớ nói rồi đấy, bọn tớ không biết.”
Ba tiếng nổ đinh tai vang lên liền nhau, và tất cả chúng tôi đều nằm phục
xuống trong khi bầu trời lóe sáng màu cam.
“Có quả bom nào rơi xuống quanh đây không, Millard?” Emma hỏi.
“Nghiên cứu của tớ chỉ liên quan tới hành vi của con người và động vật
thôi”, cậu ta đáp. “Chứ không phải bom.”
“Quả là hữu ích vô cùng cho bọn mình lúc này”, Enoch nói.
“Cậu còn chiếc thuyền nào giấu quanh đây không?” tôi hỏi Emma.
“Tớ e là không”, cô nói. “Chúng ta đành phải bơi qua đó thôi.”