Dòng hải lưu mạnh đang cuốn cái lồng ra ngoài khơi, và cuốn theo cả
chúng tôi. Nếu không nhanh tới được chỗ cái lồng, chúng tôi sẽ kiệt sức và
chết đuối. Tôi giữ ý nghĩ bi quan này cho riêng mình chừng nào có thể,
nhưng khi ngọn đèn biến mất lần thứ ba, và chúng tôi tìm kiếm nó lâu đến
mức thậm chí không còn chắc nó đã biến mất từ phía nào trên mặt biển
cuộn trào đen kịt, tôi bèn hét to, “Chúng ta phải quay lại thôi!”
Emma không buồn nghe. Cô bơi phía trước tôi, ra xa hơn ngoài khơi. Tôi
chộp lấy bàn chân đang đạp nước của cô nhưng cô đá hất tôi ra.
“Nó biến mất rồi! Chúng ta sẽ không tìm thấy nó đâu!”
“Im đi, im đi!” cô hét lên, và từ hơi thở khó nhọc của cô, tôi có thể thấy
cô cũng đã kiệt sức không kém gì tôi. “Im mồm lại và tìm đi!”
Tôi túm lấy cô, nhìn thẳng vào mặt cô và hét lên, còn cô đá tôi ra, đến khi
thấy tôi vẫn không chịu buông tay, còn cô không thể buộc tôi làm thế, cô
bắt đầu khóc, chỉ còn là những tiếng gào thét tuyệt vọng không thành lời.
Tôi cố kéo Emma về phía ngọn hải đăng, nhưng cô giống như một tảng
đá dưới nước, lại kéo tôi xuống. “Cậu phải bơi!” tôi hét lên. “Bơi đi, nếu
không chúng ta sẽ chết đuối!”
Thế rồi tôi nhìn thấy nó - một đốm sáng đỏ nhấp nháy rất mờ. Nó ở rất
gần, ngay dưới mặt nước. Thoạt đầu tôi không nói gì, sợ rằng mình chỉ
tưởng tượng ra, nhưng sau đó đốm sáng nhấp nháy lần thứ hai.
Emma vừa ho vừa reo lên. Có vẻ như cái lồng đã nằm lại trên một xác
tàu đắm khác - nếu không làm thế nào nó có thể nằm nông dưới nước như
thế? - và vì nó chỉ vừa mới chìm xuống, tôi tự nhủ rất có thể hai con chim
vẫn còn sống.
Chúng tôi bơi tới, chuẩn bị lặn xuống vớt cái lồng, mặc dù tôi không biết
phải lấy dưỡng khí từ đâu, chúng tôi gần như đã hết hơi. Thế rồi thật lạ
lùng, cái lồng có vẻ như đang trồi lên về phía chúng tôi.
“Chuyện gì vậy?” tôi hét lên. “Có phải đó là một xác tàu đắm không?”
“Không thể nào. Không có cái nào ở đây hết!”