nhưng ông đã rời bỏ chúng ta. Tiếp theo, khi bà đã lặng lẽ lau nước mắt
xong, tôi sẽ dồn dập trút câu hỏi về phía bà.
Tôi đi theo Dylan và Worm, trên một lối mòn chạy qua những bãi cỏ
chăn cừu rồi sau đó làm một chuyến leo núi nhọc nhằn đến mức phổi muốn
nổ tung. Trên đỉnh lơ lửng một màn sương mù uốn quanh như rắn lượn, đặc
quánh đến mức có cảm tưởng như bước chân vào một thế giới khác. Quả là
một cảnh như trong Kinh Thánh; tôi có thể hình dung ra màn sương mù đó
là do Chúa, trong cơn thịnh nộ ít dữ dội của Người, đã giáng xuống để
nguyền rủa người Ai Cập. Khi chúng tôi đi xuống sườn núi bên kia, màn
sương mù dường như chỉ càng dày thêm. Mặt trời nhạt dần thành một khối
màu trắng nhợt nhạt. Sương ẩm bám vào mọi thứ, dính lên da tôi, làm ướt
quần áo tôi. Nhiệt độ tụt xuống. Tôi để lạc mất Worm và Dylan trong giây
lát, rồi sau đó lối mòn trở nên bằng phẳng và tôi bắt kịp họ đang đứng đợi
mình.
“Anh chàng Mẽo!” Dylan gọi. “Đường này!”
Tôi ngoan ngoãn đi theo. Chúng tôi rời lối mòn băng qua một đồng cỏ
lầy lội. Lũ cừu nhìn chúng tôi chằm chằm bằng cặp mắt to ngờ nghệch, bộ
lông của chúng ướt sũng, đuôi cụp xuống. Một ngôi nhà nhỏ hiện ra trong
màn sương mù. Bốn phía căn nhà đóng ván kín mít.
“Các cậu có chắc là chỗ này không?”, tôi nói. “Trông có vẻ như vườn
không nhà trống vậy.”
“Trống à? Không đâu, trong ấy đầy ắp phân”, Worm trả lời.
“Đi nào”, Dylan nói. “Đến nhìn qua xem.”
Tôi có cảm giác đây là một trò bịp, song vẫn cứ bước tới gõ cửa ra vào.
Cánh cửa không cài chốt và hơi nhích ra khi tôi chạm tay vào. Bên trong
quá tối để nhìn thấy gì, vậy là tôi bước tới một bước và đặt chân - thật ngạc
nhiên - xuống thứ gì đó như một nền đất, nhưng rồi tôi nhanh chóng nhận ra
kỳ thực đó là một bãi phân rộng mênh mông ngập đến cẳng chân. Căn nhà
tồi tàn vô chủ nom từ bên ngoài thì thật vô hại, kỳ thực lại là một chuồng
cừu tạm bợ. Và có thể nói là một hố phân theo đúng nghĩa đen.